GS.TS Vũ Văn Hiền
Phó Chủ tịch Hội
đồng Lý luận Trung ương
Chủ nghĩa Mác từ khi ra đời, phát triển đã trải qua và
đứng vững trước nhiều đợt tiến công của kẻ thù tư tưởng đủ các loại màu sắc. Trong
khoảng hơn 20 năm qua, trên nhiều diễn đàn và nhiều trang báo chí ở phương Tây,
ở các nước Đông Âu, các nước thuộc Liên Xô trước đây và trong một vài trường
hợp ở nước ta, với những mức độ khác nhau, đã nổi lên một chiến dịch đả kích
chủ nghĩa Mác. Lý lẽ thông thường hiện nay cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay
đổi đến mức không còn nhận biết được nữa so với thời của C.Mác, và do đó những
tư tưởng của C.Mác không còn phù hợp nữa. Từ lập luận kiểu đó, người ta phê
bình chủ nghĩa Mác. Đầu tiên là những bài phê bình "thận trọng" một
số luận điểm, đưa ra một vài khiếm khuyết của chủ nghĩa Mác, rồi sau đó, tiến
tới sự phê phán những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, coi học thuyết Mác -
Lênin đã thuộc về quá khứ, không còn phù hợp với thế giới đương đại và cuối
cùng là phủ định chủ nghĩa Mác nói chung.
Việc bôi nhọ CNXH và phê phán chủ nghĩa Mác đang được
các thế lực thù địch đẩy tới. Số lượng những người tham gia vào công việc này
có phần tăng thêm. Ngoài những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác từ trước tới
nay và những người theo các khuynh hướng phi mác xít trong phong trào công nhân
quốc tế, điều đáng ngạc nhiên là có những nhân vật mới đây thôi còn tự coi mình
là trung thành với chủ nghĩa Mác, thì hôm nay quay ra công kích Mác một cách
gay gắt, gán cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin đủ các tội danh. Có người chẳng hiểu gì
về Mác, chưa hề nghiên cứu Mác cùng lớn tiếng phê phán Mác!
Tại sao có tình trạng như thế? Phải chăng chủ nghĩa
Mác đã lỗi thời?
Đúng là hiện nay chủ nghĩa Mác đang đứng trước thử thách
nghiêm trọng. Thực tiễn đã có những biểu hiện khác với những quan niệm truyền
thống của chúng ta và không giống như dự đoán của Mác. Tuy nhiên, tất cả những
điều đó đều có nguyên do và có thể cắt nghĩa được. Có những loại vấn đề và
những nguyên nhân tác động trực tiếp, có những vấn đề sâu xa hơn, thuộc về bản
thân chủ nghĩa Mác.
Nguyên nhân trực tiếp trở thành cơ hội để người ta phủ
nhận chủ nghĩa Mác là những hiện tượng mới nảy sinh của chủ nghĩa tư bản hiện
đại và CNXH. Một mặt, chủ nghĩa tư bản mà Mác tuyên bố tất yếu sẽ diệt vong thì
đã chưa chết và chưa chuẩn bị chết. Còn ở mặt khác, CNXH đã được sinh ra và
dường như được mô phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì lại
kém hiệu quả và đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ở nơi đầu nguồn là Liên Xô
(cũ).
Trước tiên
chúng ta xem xét về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Như C.Mác đã tiên đoán, bất bình đẳng trong thu nhập
của chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tăng lên mạnh mẽ. Thu nhập của một tỉ phú ở Mexico hiện tại
tương đương với số tiền kiếm được của 17 triệu đồng bào nghèo khổ nhất trong
đất nước của ông ta. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự thịnh vượng hơn bao giờ hết
mà lịch sử nhân loại từng chứng kiến, nhưng cái giá phải trả vô cùng to lớn,
nhất là khi nói tới cảnh xa hoa tột đỉnh của một số ít con người và cảnh cùng
cực của hàng tỉ con người. Đó chính là mâu thuẫn không thể chối cãi trong lòng
chế độ tư bản.
Mác cho rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển,
chủ nghĩa tư bản sẽ tới một thời điểm mà trong đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất gay gắt cực độ, cái vỏ quan hệ tư bản chủ nghĩa sẽ vỡ
bung ra. Tuy nhiên, Mác đã khẳng định là để tới đó, chủ nghĩa tư bản phải phát
triển tới mức tột đỉnh. Cái đỉnh ấy ngày nay chưa xuất hiện. Chính Mác cũng
chưa bao giờ ấn định thời gian kết thúc của chủ nghĩa tư bản.
Một điều nữa cần đề cập tới là trong khi nghiên cứu
chủ nghĩa tư bản để đưa ra những luận điểm trên, Mác đã trừu tượng hóa, coi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là duy nhất thống trị. Sự xuất hiện và
phát triển của CNXH đã trở thành đối tượng đáng kể nhất làm cho chủ nghĩa tư
bản mất đi vị trí độc tôn và bởi thế, chủ nghĩa tư bản không thể phát triển tự
phát trên cơ sở của bản thân nó nữa mà buộc phải tự điều chỉnh lại mình. Trong
quá trình điều chỉnh để thích nghi đó, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng thành công
các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc biệt đã sử dụng có
hiệu quả nhiều giải pháp của CNXH. Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu
đi những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó. Gọi là tạm thời làm dịu mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản vì theo qui luật không tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản vẫn lâm
vào khủng hoảng trầm trọng, như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm
2008, bắt đầu từ Mỹ và lan ra toàn thế giới. Mặt khác, cũng cần thấy rõ là
chính những thành công của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lại một lần nữa tạo thêm
những tiền đề, những yếu tố của phương thức sản xuất mới, hình thành nền tảng
công nghệ mới, cơ sở hạ tầng ở tầm cao mà CNXH sẽ được xây dựng trên đó. Những
tiền đề ấy là việc điều hòa sản xuất, ở mức độ nhất định trong phạm vi toàn xã
hội; các cơ chế phân phối lại ngoài thu nhập quốc dân; hệ thống bảo hiểm và các
quỹ phúc lợi xã hội; sự tham gia của nhân dân lao động vào công tác quản lý; sự
mở rộng dân chủ hơn với các tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa tư bản đã vô tình hoặc
đã buộc phải thực hiện những vấn đề trên. Và chính vì thế, có thể nói rằng, xã
hội tư bản hiện đại, một mặt, tất nhiên đang là tư bản chủ nghĩa, nhưng mặt
khác, chính nó đang chuẩn bị cho sự phủ định mình.
Về khủng
hoảng của CNXH. Nguyên nhân của những
khó khăn và bi kịch của CNXH là do rất nhiều yếu tố. Sự xuất hiện và xây dựng CNXH
đã diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác với dự kiến của Mác. Trên thực tế CNXH
không phải là kết quả của sự phủ định chủ nghĩa tư bản. Nó được thực hiện ở
những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển, ở những nơi có tình thế cho giai
cấp vô sản giành chính quyền nhưng lại thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Chủ nghĩa Mác chưa dự tính đến việc CNXH tồn tại song song với chủ nghĩa tư bản
và hơn thế nữa, lại ở điểm xuất phát thấp hơn các nước tư bản Tây Âu.
Ngay cả khi quan niệm về CNXH và CNCS, những nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác tỏ ra hết sức thận trọng. Ăng-ghen đã từng nhấn mạnh:
"Theo tôi, cái mà người ta gọi là "xã hội xã hội chủ nghĩa"
không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội
khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên"1. Những tác phẩm của Lê-nin dưới nhan đề
"Di huấn chính trị" có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển
quan điểm mác-xít. Điều chủ yếu của toàn bộ tác phẩm là việc thừa nhận
"toàn bộ quan điểm của chúng ta về CNXH đã thay đổi về căn bản"2
Như vậy, từ thực trạng của các nước xã hội chủ nghĩa,
vấn đề đặt ra là muốn theo kịp và sau đó chiến thắng được chủ nghĩa tư bản
trong cuộc đua tranh, CNXH cần phải chủ động rất cao, tự giác rất cao, nắm thật
vững những đặc điểm lịch sử cụ thể, vận dụng một cách có hiệu quả các quy luật
phát triển kinh tế xã hội để tìm ra cho được chiến lược tăng tốc. Thế nhưng CNXH
đã được xây dựng theo ý muốn chủ quan, cứng nhắc, khuôn mẫu và trái quy luật.
Khi đã nhận ra những khuyết tật của CNXH và tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới
nó, thì ở nhiều nước lại thiếu sự chuẩn bị những giải pháp tháo gỡ, củng cố
hoặc xây lại, mà mới kịp làm được một công việc đầu tiên là phá bỏ những gì đã
có! Vậy nên việc CNXH thua kém chủ nghĩa tư bản là do sự giáo điều hóa, thô
thiển hóa chủ nghĩa Mác, chứ đâu phải do bản thân chủ nghĩa Mác. Cũng như sự
sụp đổ nhanh chóng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và ở Liên Xô một
phần chính là do sai lầm trực tiếp của công việc cải tổ, chứ đâu phải là sai
lầm của học thuyết mác xít.
Về những
nhân tố chủ quan. Ở đây có hai cấp
độ. Một là, những khiếm khuyết của
bản thân chủ nghĩa Mác. Hai là, cái
sai của những người kế tục và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Cũng như bất kỳ một học thuyết khoa học nào khác, do
hạn chế của lịch sử, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, không phải không có
những nhận định thiếu chính xác. Chẳng hạn, khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản,
Mác đã phát hiện quy luật vận động phát triển của nó, nhưng lại không đánh giá
hết tính co dãn, khả năng tự biến đổi của xã hội tư sản. Đọc Mác, người ta thấy
dường như mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cứ ngày một tăng lên và dường như mọi
tiến bộ xã hội được thực hiện trong điều kiện chủ nghĩa tư bản cũng đều chống
lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chế độ xã hội đó thêm ngắc ngoải. Thực tiễn cho
thấy cách đặt vấn đề như vậy là một chiều, còn phiến diện và thậm chí xa lạ với
bản thân phương pháp luận mác xít.
Có thể nêu một ví dụ khác như lập trường của Mác,
Ăng-ghen và sau này của cả Lê-nin về quan hệ hàng hóa và cơ chế thị trường. Các
ông đã không dành chỗ đứng cho nền sản xuất hàng hóa sau khi thủ tiêu chủ nghĩa
tư bản. Lê-nin đã được thực hiện theo Mác và đã thất bại. Chính sách "cộng
sản thời chiến" đã để lại di chứng nặng nề cho nền kinh tế nước Nga thời
đó. Thực tế chứng tỏ rằng, trong giai đoạn đầu của CNXH, cơ chế thị trường đã
tự giải quyết vô vàn mối quan hệ - xã hội mà những giải pháp tập trung quan
liêu không thể thay thế nó được. Cũng chính Lê-nin đã điều chỉnh, đã đổi mới,
đã sáng tạo bằng "chính sách kinh tế mới" (NEP) nổi tiếng.
Nói tới nhân tố chủ quan, có lẽ điều cần nhấn mạnh
nhất phải là việc tự phê phán của những người cộng sản. Lê-nin là nhà mác xít
rất mẫu mực trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác một cách có phê phán và cùng với
nó là tự phê phán để làm giàu và hoàn thiện thêm cho học thuyết Mác. Đã là một
học thuyết khoa học thì lúc nào cũng phải tự xem xét lại. Việc xem xét và tự
phê phán chủ nghĩa Mác khác xa và thậm chí trái ngược với chủ nghĩa xét lại.
Chủ nghĩa xét lại mưu toan từ bỏ nguyên tắc, muốn làm biến dạng chủ nghĩa Mác.
Còn việc tự phê phán chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho chủ nghĩa Mác
phong phú thêm.
Trong lịch sử phong trào công nhân quốc tế, thấy nổi
rõ một điểm là những đảng công nhân chưa nắm được chính quyền thường lại có sự
tự phê phán mạnh mẽ hơn những đảng cầm quyền. Đáng lý đây phải là nhiệm vụ của
những người đang xây dựng CNXH, bởi chính đây là cuộc sống; là thực tiễn phong
phú nhất. Một yếu tố mà không ít đảng cầm quyền thiếu mạnh dạn trong việc xem
xét chủ nghĩa Mác và tự phê phán mình là tâm lý sợ xét lại hơn sợ giáo điều.
Nhưng thực ra chủ nghĩa giáo điều không kém phần nguy hại vì nó cứ yên vị trong
một cái vỏ ốc, nó làm cho chủ nghĩa Mác thành máy móc, thành khuôn mẫu.
Một số nguyên nhân quan trọng khác cũng cần phải nói
tới. Đó là việc một số đảng công nhân luôn bằng lòng với chủ nghĩa Mác và bằng
lòng với mình nên thường coi nhẹ công tác lý luận, đồng nhất công tác lý luận
với công tác chính trị, trong khi ấy lại rất ít để ý tới hoặc rất ít tiếp thu
cái mới. Tất cả những sai lầm và các nguyên nhân kể trên đã làm cho chủ nghĩa
Mác mất đi tính sống động vốn có của nó, và nếu tình hình cứ như vậy, chủ nghĩa
Mác sẽ thiếu hơi thở của cuộc sống trở thành lạc hậu, không thể lý giải được
những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra.
Để khắc phục các tình trạng đó, chúng ta cần đặc biệt
coi trọng công tác lý luận. Chủ nghĩa Mác luôn luôn rộng mở, như một cơ thể
sống phát triển không ngừng. Đó là một học thuyết khoa học gắn bó hữu cơ với
thời cuộc, như cây xanh gắn bó với nắng gió và khí trời. Thực tiễn đòi hỏi phải
có một sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mác xít. Nguyên lý mác xít chỉ có
thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của
thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại, trên cơ sở đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới, trên
cơ sở phê phán có kế thừa những lý thuyết ngoài chủ nghĩa Mác, tiếp thu một
cách có chọn lọc những yếu tố sáng tạo và hợp lý của các trào lưu tiến bộ khác,
không đố kỵ, không xa lánh, không đối lập. Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa
Mác là sự phê phán chủ nghĩa tư bản. Đó là sự phê phán sâu sắc, toàn diện, khắt
khe nhất và chính xác nhất từ trước tới nay. Không những thế chủ nghĩa Mác còn
là sự phê phán duy nhất làm thay đổi bộ phận lớn của thế giới. Điều đó muốn
nhấn mạnh, chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại, thì chủ nghĩa Mác còn tồn
tại.
Thời gian là đá thử vàng. Vận dụng sáng tạo những
nguyên lý mác xít, hơn tám mươi năm qua là giai đoạn đặc biệt của Cách mạng
Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng ta – Đảng Mác-Lênin, là thời gian mà đất nước phải
chấp nhận và vượt qua nhiều thử thách to lớn, có lúc hiểm nghèo. Nhưng mỗi lần
vượt qua thử thách là mỗi lần dân tộc ta tự vươn lên tạo dựng những mốc son
lịch sử đánh dấu những thắng lợi vẻ vang.
Đó là thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, lập nên và bảo vệ
vững chắc chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh nền
kinh tế - tài chính quốc gia kiệt quệ, giặc đói, giặc dốt hoành hành, lại thêm
thù trong giặc ngoài quấy đảo với sức mạnh và ý đồ tưởng chừng có thể xóa bỏ
chốc lát chính quyền cách mạng. Nhưng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với kim chỉ nam là chủ nghĩa
Mác-Lênin, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua ghềnh thác, lướt
sóng đi lên.
Đó là chiến thắng lẫy lừng của hai cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, gian khổ, chiến đấu chống những thế lực thực dân
đế quốc hung bạo, làm lên một “Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập tư do và CNXH cho dân
tộc Việt Nam.
Đó là những thành tựu quan trọng đầy ấn tượng của công
cuộc đổi mới toàn diện đời sống đất nước. Trong điều kiện vô cùng khó khăn do
sự bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và sự sụp đổ của CNXH ở các nước Đông
Âu và Liên Xô, đất nước ta không những đứng vững mà còn phát triển, chính trị
xã hội ổn định, nền kinh tế có những bước tiến vững chắc, đời sống của nhân dân
không ngừng được cải thiện. Thành quả đó cũng chính là sự khẳng định mục tiêu
lý tưởng của Đảng và nhân dân ta là đúng đắn – với sự soi đường của phương pháp
cách mạng mác xít.
*
* *
Ngọn cờ tư tưởng và lý luận mà Đảng ta và Bác Hồ luôn giương
cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác là vỉa tầng quý giá nhất của trí
tuệ loài người, là cốt lõi tinh thần của CNXH. Chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã
tạo điều kiện cho phong trào xã hội chủ nghĩa có những bước đi khổng lồ, đem
lại cho CNXH vị trí xứng đáng trong những nấc thang phát triển của xã hội loài
người. Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã
cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một
chiến lược chính trị đúng để cải tạo xã hội, để áp dụng một cách thành công vào
công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội
chủ nghĩa lâu dài trên đất nước ta.