Tuesday, July 21, 2015

CHỦ NGHĨA MÁC VÀ THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI



                  GS.TS Vũ Văn Hiền
 Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Chủ nghĩa Mác từ khi ra đời, phát triển đã trải qua và đứng vững trước nhiều đợt tiến công của kẻ thù tư tưởng đủ các loại màu sắc. Trong khoảng hơn 20 năm qua, trên nhiều diễn đàn và nhiều trang báo chí ở phương Tây, ở các nước Đông Âu, các nước thuộc Liên Xô trước đây và trong một vài trường hợp ở nước ta, với những mức độ khác nhau, đã nổi lên một chiến dịch đả kích chủ nghĩa Mác. Lý lẽ thông thường hiện nay cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi đến mức không còn nhận biết được nữa so với thời của C.Mác, và do đó những tư tưởng của C.Mác không còn phù hợp nữa. Từ lập luận kiểu đó, người ta phê bình chủ nghĩa Mác. Đầu tiên là những bài phê bình "thận trọng" một số luận điểm, đưa ra một vài khiếm khuyết của chủ nghĩa Mác, rồi sau đó, tiến tới sự phê phán những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, coi học thuyết Mác - Lênin đã thuộc về quá khứ, không còn phù hợp với thế giới đương đại và cuối cùng là phủ định chủ nghĩa Mác nói chung.
Việc bôi nhọ CNXH và phê phán chủ nghĩa Mác đang được các thế lực thù địch đẩy tới. Số lượng những người tham gia vào công việc này có phần tăng thêm. Ngoài những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác từ trước tới nay và những người theo các khuynh hướng phi mác xít trong phong trào công nhân quốc tế, điều đáng ngạc nhiên là có những nhân vật mới đây thôi còn tự coi mình là trung thành với chủ nghĩa Mác, thì hôm nay quay ra công kích Mác một cách gay gắt, gán cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin đủ các tội danh. Có người chẳng hiểu gì về Mác, chưa hề nghiên cứu Mác cùng lớn tiếng phê phán Mác!
Tại sao có tình trạng như thế? Phải chăng chủ nghĩa Mác đã lỗi thời?
Đúng là hiện nay chủ nghĩa Mác đang đứng trước thử thách nghiêm trọng. Thực tiễn đã có những biểu hiện khác với những quan niệm truyền thống của chúng ta và không giống như dự đoán của Mác. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều có nguyên do và có thể cắt nghĩa được. Có những loại vấn đề và những nguyên nhân tác động trực tiếp, có những vấn đề sâu xa hơn, thuộc về bản thân chủ nghĩa Mác.
Nguyên nhân trực tiếp trở thành cơ hội để người ta phủ nhận chủ nghĩa Mác là những hiện tượng mới nảy sinh của chủ nghĩa tư bản hiện đại và CNXH. Một mặt, chủ nghĩa tư bản mà Mác tuyên bố tất yếu sẽ diệt vong thì đã chưa chết và chưa chuẩn bị chết. Còn ở mặt khác, CNXH đã được sinh ra và dường như được mô phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì lại kém hiệu quả và đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ở nơi đầu nguồn là Liên Xô (cũ).
Trước tiên chúng ta xem xét về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Như C.Mác đã tiên đoán, bất bình đẳng trong thu nhập của chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tăng lên mạnh mẽ. Thu nhập của một tỉ phú ở Mexico hiện tại tương đương với số tiền kiếm được của 17 triệu đồng bào nghèo khổ nhất trong đất nước của ông ta. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự thịnh vượng hơn bao giờ hết mà lịch sử nhân loại từng chứng kiến, nhưng cái giá phải trả vô cùng to lớn, nhất là khi nói tới cảnh xa hoa tột đỉnh của một số ít con người và cảnh cùng cực của hàng tỉ con người. Đó chính là mâu thuẫn không thể chối cãi trong lòng chế độ tư bản.
Mác cho rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa tư bản sẽ tới một thời điểm mà trong đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gay gắt cực độ, cái vỏ quan hệ tư bản chủ nghĩa sẽ vỡ bung ra. Tuy nhiên, Mác đã khẳng định là để tới đó, chủ nghĩa tư bản phải phát triển tới mức tột đỉnh. Cái đỉnh ấy ngày nay chưa xuất hiện. Chính Mác cũng chưa bao giờ ấn định thời gian kết thúc của chủ nghĩa tư bản.
Một điều nữa cần đề cập tới là trong khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản để đưa ra những luận điểm trên, Mác đã trừu tượng hóa, coi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là duy nhất thống trị. Sự xuất hiện và phát triển của CNXH đã trở thành đối tượng đáng kể nhất làm cho chủ nghĩa tư bản mất đi vị trí độc tôn và bởi thế, chủ nghĩa tư bản không thể phát triển tự phát trên cơ sở của bản thân nó nữa mà buộc phải tự điều chỉnh lại mình. Trong quá trình điều chỉnh để thích nghi đó, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng thành công các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc biệt đã sử dụng có hiệu quả nhiều giải pháp của CNXH. Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó. Gọi là tạm thời làm dịu mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vì theo qui luật không tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản vẫn lâm vào khủng hoảng trầm trọng, như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008, bắt đầu từ Mỹ và lan ra toàn thế giới. Mặt khác, cũng cần thấy rõ là chính những thành công của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lại một lần nữa tạo thêm những tiền đề, những yếu tố của phương thức sản xuất mới, hình thành nền tảng công nghệ mới, cơ sở hạ tầng ở tầm cao mà CNXH sẽ được xây dựng trên đó. Những tiền đề ấy là việc điều hòa sản xuất, ở mức độ nhất định trong phạm vi toàn xã hội; các cơ chế phân phối lại ngoài thu nhập quốc dân; hệ thống bảo hiểm và các quỹ phúc lợi xã hội; sự tham gia của nhân dân lao động vào công tác quản lý; sự mở rộng dân chủ hơn với các tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa tư bản đã vô tình hoặc đã buộc phải thực hiện những vấn đề trên. Và chính vì thế, có thể nói rằng, xã hội tư bản hiện đại, một mặt, tất nhiên đang là tư bản chủ nghĩa, nhưng mặt khác, chính nó đang chuẩn bị cho sự phủ định mình.
Về khủng hoảng của CNXH. Nguyên nhân của những khó khăn và bi kịch của CNXH là do rất nhiều yếu tố. Sự xuất hiện và xây dựng CNXH đã diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác với dự kiến của Mác. Trên thực tế CNXH không phải là kết quả của sự phủ định chủ nghĩa tư bản. Nó được thực hiện ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển, ở những nơi có tình thế cho giai cấp vô sản giành chính quyền nhưng lại thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Chủ nghĩa Mác chưa dự tính đến việc CNXH tồn tại song song với chủ nghĩa tư bản và hơn thế nữa, lại ở điểm xuất phát thấp hơn các nước tư bản Tây Âu.
Ngay cả khi quan niệm về CNXH và CNCS, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác tỏ ra hết sức thận trọng. Ăng-ghen đã từng nhấn mạnh: "Theo tôi, cái mà người ta gọi là "xã hội xã hội chủ nghĩa" không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên"1. Những tác phẩm của Lê-nin dưới nhan đề "Di huấn chính trị" có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển quan điểm mác-xít. Điều chủ yếu của toàn bộ tác phẩm là việc thừa nhận "toàn bộ quan điểm của chúng ta về CNXH đã thay đổi về căn bản"2
Như vậy, từ thực trạng của các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là muốn theo kịp và sau đó chiến thắng được chủ nghĩa tư bản trong cuộc đua tranh, CNXH cần phải chủ động rất cao, tự giác rất cao, nắm thật vững những đặc điểm lịch sử cụ thể, vận dụng một cách có hiệu quả các quy luật phát triển kinh tế xã hội để tìm ra cho được chiến lược tăng tốc. Thế nhưng CNXH đã được xây dựng theo ý muốn chủ quan, cứng nhắc, khuôn mẫu và trái quy luật. Khi đã nhận ra những khuyết tật của CNXH và tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới nó, thì ở nhiều nước lại thiếu sự chuẩn bị những giải pháp tháo gỡ, củng cố hoặc xây lại, mà mới kịp làm được một công việc đầu tiên là phá bỏ những gì đã có! Vậy nên việc CNXH thua kém chủ nghĩa tư bản là do sự giáo điều hóa, thô thiển hóa chủ nghĩa Mác, chứ đâu phải do bản thân chủ nghĩa Mác. Cũng như sự sụp đổ nhanh chóng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và ở Liên Xô một phần chính là do sai lầm trực tiếp của công việc cải tổ, chứ đâu phải là sai lầm của học thuyết mác xít.
Về những nhân tố chủ quan. Ở đây có hai cấp độ. Một là, những khiếm khuyết của bản thân chủ nghĩa Mác. Hai là, cái sai của những người kế tục và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Cũng như bất kỳ một học thuyết khoa học nào khác, do hạn chế của lịch sử, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, không phải không có những nhận định thiếu chính xác. Chẳng hạn, khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác đã phát hiện quy luật vận động phát triển của nó, nhưng lại không đánh giá hết tính co dãn, khả năng tự biến đổi của xã hội tư sản. Đọc Mác, người ta thấy dường như mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cứ ngày một tăng lên và dường như mọi tiến bộ xã hội được thực hiện trong điều kiện chủ nghĩa tư bản cũng đều chống lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chế độ xã hội đó thêm ngắc ngoải. Thực tiễn cho thấy cách đặt vấn đề như vậy là một chiều, còn phiến diện và thậm chí xa lạ với bản thân phương pháp luận mác xít.
Có thể nêu một ví dụ khác như lập trường của Mác, Ăng-ghen và sau này của cả Lê-nin về quan hệ hàng hóa và cơ chế thị trường. Các ông đã không dành chỗ đứng cho nền sản xuất hàng hóa sau khi thủ tiêu chủ nghĩa tư bản. Lê-nin đã được thực hiện theo Mác và đã thất bại. Chính sách "cộng sản thời chiến" đã để lại di chứng nặng nề cho nền kinh tế nước Nga thời đó. Thực tế chứng tỏ rằng, trong giai đoạn đầu của CNXH, cơ chế thị trường đã tự giải quyết vô vàn mối quan hệ - xã hội mà những giải pháp tập trung quan liêu không thể thay thế nó được. Cũng chính Lê-nin đã điều chỉnh, đã đổi mới, đã sáng tạo bằng "chính sách kinh tế mới" (NEP) nổi tiếng.
Nói tới nhân tố chủ quan, có lẽ điều cần nhấn mạnh nhất phải là việc tự phê phán của những người cộng sản. Lê-nin là nhà mác xít rất mẫu mực trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác một cách có phê phán và cùng với nó là tự phê phán để làm giàu và hoàn thiện thêm cho học thuyết Mác. Đã là một học thuyết khoa học thì lúc nào cũng phải tự xem xét lại. Việc xem xét và tự phê phán chủ nghĩa Mác khác xa và thậm chí trái ngược với chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa xét lại mưu toan từ bỏ nguyên tắc, muốn làm biến dạng chủ nghĩa Mác. Còn việc tự phê phán chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho chủ nghĩa Mác phong phú thêm.
Trong lịch sử phong trào công nhân quốc tế, thấy nổi rõ một điểm là những đảng công nhân chưa nắm được chính quyền thường lại có sự tự phê phán mạnh mẽ hơn những đảng cầm quyền. Đáng lý đây phải là nhiệm vụ của những người đang xây dựng CNXH, bởi chính đây là cuộc sống; là thực tiễn phong phú nhất. Một yếu tố mà không ít đảng cầm quyền thiếu mạnh dạn trong việc xem xét chủ nghĩa Mác và tự phê phán mình là tâm lý sợ xét lại hơn sợ giáo điều. Nhưng thực ra chủ nghĩa giáo điều không kém phần nguy hại vì nó cứ yên vị trong một cái vỏ ốc, nó làm cho chủ nghĩa Mác thành máy móc, thành khuôn mẫu.
Một số nguyên nhân quan trọng khác cũng cần phải nói tới. Đó là việc một số đảng công nhân luôn bằng lòng với chủ nghĩa Mác và bằng lòng với mình nên thường coi nhẹ công tác lý luận, đồng nhất công tác lý luận với công tác chính trị, trong khi ấy lại rất ít để ý tới hoặc rất ít tiếp thu cái mới. Tất cả những sai lầm và các nguyên nhân kể trên đã làm cho chủ nghĩa Mác mất đi tính sống động vốn có của nó, và nếu tình hình cứ như vậy, chủ nghĩa Mác sẽ thiếu hơi thở của cuộc sống trở thành lạc hậu, không thể lý giải được những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra.
Để khắc phục các tình trạng đó, chúng ta cần đặc biệt coi trọng công tác lý luận. Chủ nghĩa Mác luôn luôn rộng mở, như một cơ thể sống phát triển không ngừng. Đó là một học thuyết khoa học gắn bó hữu cơ với thời cuộc, như cây xanh gắn bó với nắng gió và khí trời. Thực tiễn đòi hỏi phải có một sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mác xít. Nguyên lý mác xít chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, trên cơ sở đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới, trên cơ sở phê phán có kế thừa những lý thuyết ngoài chủ nghĩa Mác, tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố sáng tạo và hợp lý của các trào lưu tiến bộ khác, không đố kỵ, không xa lánh, không đối lập. Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác là sự phê phán chủ nghĩa tư bản. Đó là sự phê phán sâu sắc, toàn diện, khắt khe nhất và chính xác nhất từ trước tới nay. Không những thế chủ nghĩa Mác còn là sự phê phán duy nhất làm thay đổi bộ phận lớn của thế giới. Điều đó muốn nhấn mạnh, chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại, thì chủ nghĩa Mác còn tồn tại.
Thời gian là đá thử vàng. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý mác xít, hơn tám mươi năm qua là giai đoạn đặc biệt của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta – Đảng Mác-Lênin, là thời gian mà đất nước phải chấp nhận và vượt qua nhiều thử thách to lớn, có lúc hiểm nghèo. Nhưng mỗi lần vượt qua thử thách là mỗi lần dân tộc ta tự vươn lên tạo dựng những mốc son lịch sử đánh dấu những thắng lợi vẻ vang.
Đó là thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, lập nên và bảo vệ vững chắc chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh nền kinh tế - tài chính quốc gia kiệt quệ, giặc đói, giặc dốt hoành hành, lại thêm thù trong giặc ngoài quấy đảo với sức mạnh và ý đồ tưởng chừng có thể xóa bỏ chốc lát chính quyền cách mạng. Nhưng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với kim chỉ nam là chủ nghĩa Mác-Lênin, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua ghềnh thác, lướt sóng đi lên.
Đó là chiến thắng lẫy lừng của hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, gian khổ, chiến đấu chống những thế lực thực dân đế quốc hung bạo, làm lên một “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập tư do và CNXH cho dân tộc Việt Nam.
Đó là những thành tựu quan trọng đầy ấn tượng của công cuộc đổi mới toàn diện đời sống đất nước. Trong điều kiện vô cùng khó khăn do sự bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và sự sụp đổ của CNXH ở các nước Đông Âu và Liên Xô, đất nước ta không những đứng vững mà còn phát triển, chính trị xã hội ổn định, nền kinh tế có những bước tiến vững chắc, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Thành quả đó cũng chính là sự khẳng định mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân dân ta là đúng đắn – với sự soi đường của phương pháp cách mạng mác xít.
*
*                      *
Ngọn cờ tư tưởng và lý luận mà Đảng ta và Bác Hồ luôn giương cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác là vỉa tầng quý giá nhất của trí tuệ loài người, là cốt lõi tinh thần của CNXH. Chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo điều kiện cho phong trào xã hội chủ nghĩa có những bước đi khổng lồ, đem lại cho CNXH vị trí xứng đáng trong những nấc thang phát triển của xã hội loài người. Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một chiến lược chính trị đúng để cải tạo xã hội, để áp dụng một cách thành công vào công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa lâu dài trên đất nước ta.


1 C.Mác - Ph.Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984
2 V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978 t45, tr 428

NỀN DÂN CHỦ CỦA CHÚNG TA TRONG XU THẾ THỜI ĐẠI NGÀY NAY.


Cao Đức Thái
Thời đai ngày nay được định nghĩa bằng nhiều khái niêm, từ nhiều lĩnh vực. Trên lĩnh vực khoa học công nghệ, người ta cho rằng thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão, đặc biệt là công nghệ thông tin-viễn thông(ITC) và số hóa. Những tác động to lớn của khoa học, công nghệ đến sản xuất và đời sống xã hội đã diễn ra đúng như dự báo của   C. Mác cách đây trên ½ thế kỷ. Trên lĩnh vực xã hội, chính trị, người ta cho rằng thời đại ngày nay được đánh dấu bằng quá trình toàn cầu hóa nhiều mặt từ chính tri, dân chủ đến quyền con người và kinh tế thị trường. Cho dù tiếp cận từ lĩnh vực nào thì người ta cũng không thể phủ nhận được rằng những đặc trưng của thời đại là một thực tế khách quan, là điều kiện mà mỗi quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều phải thích ứng với quá trình đó.
Dân chủ (DC) là một hình thức tổ chức, thiết chế chính trị của nhà nước và xã hội, dựa trên nguyên tắc cơ bản- nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Giá trị của DC là ở chỗ đó là động lực cơ bản của sự phát triển xã hội. Chính vì vậy trong các hình thái kinh tế xã hội, giai cấp cầm quyền luôn sử dụng DC như là một nhân tố nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng, của chế độ xã hội và của dân tộc. Tất nhiên trong các chế độ trước xã hội TBCN, chỉ mới tồn tại những nhân tố nào đó của DC. Chẳng hạn như chế độ DC chủ nô ở Hy Lạp khoảng những năm 400 trước công nguyên. Chế độ DC này quy định nam giới có quyền tham gia bầu cử nhiều chức danh quản lý xã hội, nhưng quyền đó không có đối với phụ nữ và người nô lệ.
Hiện nay câu chuyện có hay không có DC trong hình thái kinh tế phong kiến vẫn đang còn tranh luận. Nhiều ý kiến cho rằng, trong xã hội phong kiến , nhất là ở phương Đông do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt …các nhà nước ở đây buộc phải “ trọng dân”, “ thân dân” “ thương dân” để duy trì và phát triển chế độ. Có thể xem như những tư tưởng trên là những yếu tố của DC trong chế độ này. Ở nước ta, ngoài có chung các yếu tố như các quốc gia phương Đông khác, còn có một đặc trưng lịch sử nữa là thường xuyên phải chống xâm lược nên yếu tố DC ở Việt Nam mang tính chất nhân dân (ít nhiều có tổ chức) ở thời kỳ thịnh vượng. Sự kiện Hội nghị Diên Hồng, mà nội dung cơ bản của nó là ý kiến đa số của những người cao tuổi có uy tín là quyết định. Đây có thể xem như một đỉnh cao của tư tưởng DC trong lịch sử Dân tộc ta.
Có thể nói các cuộc cách mạng DC tư sản mở đầu từ thế kỷ XVI, với các cuộc cách mạng điển hình như: Hà Lan, 1581 ( mở đầu), Anh, 1689, Mỹ 1766, Pháp 1789 đã mở ra một nền DC theo đúng nghĩa của nó. Nghĩa là không chỉ có những nhân tố nào đó của DC mà đã bao gồm đầy đủ các nhân tố của DC. Tuy nhiên đó vẫn là một nền DC do giai cấp tư sản lãnh đạo vì lợi ích của giai cấp đó. Cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười, năm 1917 đã mở ra một chế độ DC mới. Đó là DC XHCN, nền DC do giai cấp công nhân lãnh đạo hướng đến lợi ích cho toàn dân. Sau chiến tranh thế giới thứ II, do tác động của CNXH phong trào giải phong dân tộc ra đời và đã giành được những thắng lợi to lớn, kết quả là một chế độ DC mới ra đời. Đó là DC nhân dân, hướng theo con đường xây dựng xã hội XHCN. Có thể xem các nền DC: DC tư sản, DC XHCN, DC nhân dân là ba chế độ DC với ba thiết chế cơ bản của nền DC trên thế giới. Mỗi một chế độ DC nói trên đều có những thiết chế khác nhau, nhưng đều có những yếu tố chung. Đó là:
1) Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân ( bao gồm tất cả các thành viên xã hội) ;
2) Bầu cử tự do và theo nhiệm kỳ bầu ra các cơ quan, người lãnh đạo nhà nước;
3) Quyền lực của Nhà nước được chia ra làm 3 nhánh: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan trên có một chức năng riêng.
4) Hiến pháp và pháp luật được xem là tối thượng;
5) Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được tôn trọng và bảo đảm.
6) Nhà nước thừa nhận các tổ chức xã hội phi chính phủ ( NGOs) như là một yếu tố bổ sung cho nền DC.
Cơ sở kinh tế của các nền DC là nền kinh tế thị trường nói chung. Hiện nay trong các nền DC đang tồn tại những mô hình kinh tế thị trường khác nhau: Kinh tế thị trường tự do ( Điển hình là Mỹ, Anh); Kinh tế thị trường xã hội ( điển hình là các nền kinh tế Bắc ÂU, như Thụ Điển, Đan Mạch, Phần Lan…) và Kinh tế thị trường XHCN ( Trung Quốc gọi là kinh tế thị rường XHCN, Việt Nam gọ là kinh tế thị trường định hướng XHCN).
Trên đây là những yếu tố cơ bản của các mô hình DC.Với chế độ DC, ngày nay trên thế giới có nhiều mô hình DC với những thiết chế, cụ thể khác nhau. Thực tế cho thấy sự khác nhau giữa các chế độ DC chủ yếu ở những nội dung  sau:
- Lực lượng chính trị nào cầm quyền vì lợi ích của ai?
-Về thể chế đảng lãnh đạo cầm quyền: chế độ đa đảng hay một đảng duy nhất lãnh đạo cầm quyền...;
-Mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực như thế nào ( phân lập hay phân công phối hợp);
Trong mô hình “DC xã hội” ( ở các nước Bắc Âu hiện nay), ngoài thể chế tam quyền phân lập, nhà nước pháp quyền còn có cơ quan giám sát nhân quyền độc lập (gọi là Obusman, đặt ở Quốc hội ) còn có hai yếu tố quan trọng khác của mô hình này là: 1) Nhà nước phúc lợi ( nhà nước bảo đảm an toàn xã hội cho tất cả mọi người có mức sống không được thấp hơn đói khổ). 2) Và quyền “tham quyết” của 3 bên gồm: Đại diện chính quyền; Đại diện người lạo động ( Thường là công đoàn) và giới chủ quyết định đối với các vấn đề kinh tế xã hội, nhất là ở cấp cơ sở, công ty. Trên đây có thể xem như đặc trưng của mô hình DC “xã hội DC”  Bắc Âu. Mô hình này đang có sức hấp dẫn lớn đối với thế giới.
Thời gian gần đây, trên một số mạng xã hội, có cá nhân, thậm chí có những nhóm người dưới những hình thức khác nhau, đưa vào “Tuyên bố” ( của những “Hội”, “ Đoàn” “ độc lập”) viết trong “thư ngỏ”, kiến nghị:  “thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ…”. Có thể nói đây là những nhận định sai trái, không phù hợp với thực tế, nếu không nói rằng, đó là sự  xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Không phủ nhận rằng, sự phát triển của nền DC trên thế giới ngày nay, đặc biệt là về thể chế là một xu thế không thể đảo ngược được. Nó được xem như một đặc trưng về chính trị của nền văn minh nhân loại. Nội dung chủ yếu của xu thế đó là: Thứ nhất, đó là vai trò của nhân dân ngày càng được nâng cao. Thứ hai, đó là Nhà nước pháp quyền và nguyên tắc pháp luật tối thượng đước khẳng định mạnh mẽ. Thứ ba, đó là quyền con người, quyền và nghịa vụ công dân được xem vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Và cuối cùng, đó là quyền tiếp cận thông tin của người dân được tôn trọng và bảo đảm.
Nền dân chủ của dân tộc ta ra đời trong cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nền dân chủ đó đã được thử thách, trải nghiệm trong các cuộc kháng chiến đánh bại những kẻ thù hung bạo nhất của chủ nghĩa đế quốc, để lại dấu ấn thời đại. Bước vào giai đoạn xây dựng xã hội XHCN, nền dân chủ đó cũng đã được trải nghiệm trong mô hình cũ của CNXH, mà đặc trưng của nó là: Về chính trị, đó là nhà nước chuyên chính vô sản…; về kinh tế, đó là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu với hai thành phần duy nhất: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể…Đại hội VI, năm 1986 Đảng ta đã quyết định chuyển sang xây dựng xã hội XHCN theo mô hình mới-mô hình được hoàn thiện từng bước từ Đại hội VII đến nay. Những thành tố của mô hình đó là: Về chính trị, đó là xã hội do nhân dân làm chủ với nhà nước pháp quyền do Đảng ta lãnh đạo; về kinh tế, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…
Mặc dù đã đạt được những thành quả to lớn, song 25 năm đổi mới xã hội ta đã xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, tham nhũng, lợi ích nhóm, bệnh nhiệm kỳ… có khuynh hướng gia tăng.  Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm… Hội nghị TW 4 đã công khai chỉ ra nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống của cán bộ, Đảng viên các cấp. Nếu không chúng ta không kịp thời ngăn chặn tình trạng suy thoái này không loại trừ thể dẫn đến những bất ổn xã hội, xóa đi những thành quả của công cuộc đổi mới trong nhiều thập kỷ qua, gây hậu quả khó lường. Bởi vậy, để khắc phục tình hình trên, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã tập trung bảo đảm và phát huy mạnh mẽ DC  XHCN mà cốt lõi là quyền làm chủ của nhân dân.
Có thể nói thực hiện sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân ta đã được thể chế hoa trong Hiến pháp 2013. Hiện nay Hiến pháp này đang được triển khai, trước hết là việc hoàn thiên pháp luật trong đó có luật Luật tổ chức và hoạt động của Chính phủ; Luật tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân (sửa đổi)…Nhiều quy định trong Dự thảo sửa đổi các luật trên được các đại biểu phát biểu dựa trên bảo đảm các quyền con người được quy định trong Hiến pháp 3013. Theo tinh thần đó quyền của bị can, bị cáo, quyền của những người đã bị tước một phần quyền tự do ( người đang chấp hành án phát tù) cũng được quan tâm. Vai trò của luật sư được đề cao. Có ý kiến cho rằng để không có án oan sai…nên cân nhắc đưa vào luật “ quyền được im lặng”.
Sáng ngày 02 tháng 10, trong phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc phê chuẩn công ước Chống tra tấn đã được Thường vụ Quốc Hội thông qua. Việc Việt Nam ký kết và phê chuẩn công ước “ Chống tra tấn” một lần nữa thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta mọi hành vi chống tra tấn, hạ nhục con người. Như thông tin đại chúng đã đưa Việt Nam đã ký Công ước này vào tháng 11năm 2013 và dự kiến việc Quốc hội sẽ phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8, khai mạc vào cuối tháng 10 này.
Thực hiện Văn kiện Đại họi XI và triển khai Hiến pháp 2013, ngày 26 tháng 9, Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII đã khai mạc. Trong chủ đề chung “ Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới”, Đại hội đã tập trung vào chức năng  “ giám sát” và “ phản biện” được ghi trong Văn kiện của Đại hội XI. Đây là một khía cạnh mới nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong nền DC của chúng ta.
Trong nền DC XHCN, vai trò lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc. Tuy nhiên vai trò này cần có những quy định như thế nào để vừa giữ được trách nhiệm chính trị của Đảng, đồng thời không được lạm quyền của cơ quan, tổ chức nhà nước và của nhân dân. Điều nay đã được quy định tại Điều 4, Hiến pháp 2013. Điều 4, quy định như sau: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Khác với quy định tại Điều 4, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 quy định rõ, không chỉ tổ chức Đảng mà cả Đảng viên của Đảng cũng phải tuân thủ pháp luật như những công dân bình thường.
Theo tinh thần mở rộng DC, đồng thời giữ vững kỷ cương, quyền tự do ngôn luận báo chí được phát huy. Nhiều sự kiện chính trị mà trước đây được xem là “nhậy cảm” đã được báo chí đưa tin công khai. Chẳng hạn như việc Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, hoặc các ý kiến khác nhau của đại biểu trong các kỳ họp của Thường vụ Quốc hội vừa qua là những ví dụ…Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí đồng thời giữ nghiêm kỷ cương báo chí vẫn luôn được các cơ quan chức năng tôn trọng. Việc Bộ chủ quản xử lý những tổ chức báo chí đăng bài: “Gái miền Tây và 3 chữ “N”, và bài  “Thư gửi bố ở Trường Sa”, nhằm “câu like” đã được dư luận hoan nghênh.
Như vậy có thể nói, mặc dù nền DC của chúng ta vẫn còn không ít vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn như cần bảo đảm tính độc lập, cân bằng và sự giám sát của các nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp như thế nào trong thể chế phân công, phối hợp của Nhà nước ta, hoặc làm sao để phát huy đầy đủ chức năng của các tổ chức xã hội, …Đặc biệt còn nhiều quyền của người dân đã được ghi trong Hiến pháp 2013 nhưng chưa có luât bảo đảm, trong đó có quyền biểu tình, quyền lập hội… Mặc dầu vậy không thể phủ nhận được rằng nền DC của chúng ta đã và đang phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay.