Tuesday, October 4, 2016

Mạng xã hội không phải là truyền thông công chúng!

Từ tinh thần cầu thị, thái độ trách nhiệm của một số lãnh đạo và chính quyền địa phương ở Việt Nam trước một số thông tin trên mạng xã hội, gần đây BBC tổ chức tọa đàm để quảng bá cho điều họ gọi là “sức mạnh truyền thông mạng xã hội”, và biến mạng xã hội thành cái gọi là “truyền thông lề trái”! Vậy bản chất điều BBC đề cập và phóng đại là gì ?
Có thể nói với sự ra đời vào những năm 90 thế kỷ trước, mạng xã hội (Social Network) với một số tính năng tuy sơ khai nhưng đã tạo dựng cơ sở cung cấp cho con người một phương tiện liên kết quan trọng. Sau hơn 20 năm, dựa trên nền tảng phát triển của in-tơ-nét, tiếp nhận thành tựu của khoa học - công nghệ và kết hợp năng lực sáng tạo của con người, mạng xã hội đã phát triển với tốc độ chóng mặt, luôn bổ sung nhiều tiện ích mới, đa dạng, hiệu quả, hấp dẫn, giúp khắc phục khoảng cách địa lý, khắc phục sự khác biệt về quốc gia, ngôn ngữ, văn hóa, dân tộc,... để một người có thể liên kết, chia sẻ với mọi người, mọi người có thể liên kết, chia sẻ với một người. Do đó, mạng xã hội đã và đang thu hút đông người dùng trên thế giới. Những mạng xã hội, như Facebook, MySpace, Youtube, CyWorld, Twitter,... giờ đây không còn xa lạ. Theo Facebook, đến quý I-2016, số người dùng truy cập mạng này đã lên đến 1,65 tỷ người mỗi tháng. Và từ sự phổ biến của mạng xã hội, từ nhu cầu cần tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà nguyên thủ quốc gia, chính phủ, cơ quan nhà nước, chính khách,... tại một số nước đã lập trang mạng xã hội riêng để tương tác, kết nối.
Phải nói rằng mạng xã hội đã đáp ứng một nhu cầu quan trọng của cuộc sống con người là tạo lập các mối tương tác, tạo điều kiện để mỗi người có thể thể hiện suy nghĩ, tâm tư, sở thích, biểu lộ tình cảm, trao đổi, chia sẻ trải nghiệm, tham khảo ý kiến, trình bày quan niệm về vấn đề nào đó của xã hội hoặc con người... Tính kết nối, chia sẻ gắn liền với mỗi cá nhân đã làm cho thông tin trên mạng xã hội hết sức phong phú. Tuy nhiên, vì gắn liền với mục đích của người công bố cho nên thông tin trên mạng xã hội không mang ý nghĩa như thông tin từ truyền thông công chúng. Theo ông Trương Trí Vĩnh, Giám đốc Dự án VC Corp, cần phân biệt hai khái niệm truyền thông công chúng (Social Media) với mạng xã hội (Social Network). Bởi xét trên hai phần cơ bản của truyền thông là sản xuất nội dung, phân phối nội dung thì truyền thông công chúng đề cập hình thức sản xuất, phân phối nội dung một cách có tổ chức trên phạm vi xã hội, còn mạng xã hội đề cập một tập hợp các phần tử (thành viên) và các quan hệ liên kết giữa họ; do đó mạng xã hội không phải là truyền thông công chúng, vì không sản xuất, cũng không phân phối. Do vậy, truyền thông công chúng không phụ thuộc vào mạng xã hội, cũng không thể đánh đồng với thông tin trên mạng xã hội.
Theo Tổ chức thống kê số liệu in-tơ-nét quốc tế (internetworldstats) tới tháng 6-2015, ở Việt Nam có khoảng 45,5 triệu người dùng in-tơ-nét, mức thâm nhập/dân số 48%, gồm người truy cập in-tơ-nét trên tất cả các phương tiện hỗ trợ (PC, laptop, điện thoại,...). Theo thống kê của Facebook, hiện nay Việt Nam có khoảng 30 triệu người dùng Facebook, con số đó vẫn tiếp tục tăng. Cũng như ở các nước khác trên thế giới, người sử dụng mạng xã hội nói chung và sử dụng Facebook nói riêng ở Việt Nam rất đa dạng về lứa tuổi, học vấn, nghề nghiệp, thành phần xã hội,... Các tiện ích của mạng xã hội thật sự thu hút nhiều người, tạo ra môi trường mở giúp giao lưu, liên kết. Từ các tiện ích đó, một số báo điện tử lập trang Facebook để mở rộng thông tin đến bạn đọc. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị lập trang Facebook để quảng bá hình ảnh, cung cấp thông tin, giới thiệu sản phẩm, bán hàng online. Ngay FacebookVietnam cũng tận dụng ưu thế đó, như mới đây trang này chia sẻ một bài viết của Online Friday (Ngày mua sắm trực tuyến) với quảng cáo: "Cùng Facebook tham gia ngày hội mua sắm trực tuyến vào ngày 30-9 với hơn 68.200 sản phẩm đến từ các thương hiệu uy tín trong nước".
Nhưng thực tế lại cho thấy càng gần đây mạng xã hội càng bị biến dạng trở thành "thế giới chứa cả vàng lẫn rác". Như bài Bạn sẽ phải ngã ngửa khi biết được những sự thật này của Facebook cho biết "8,7 % người dùng Facebook là giả mạo" và sau khi truy cập mạng xã hội này thì "cứ ba người thì có một người cảm thấy bất mãn với cuộc sống hiện tại của họ". Trên mạng xã hội các thông tin bịa đặt, giả dối, vu cáo, xúc phạm, đe dọa, mạo danh, thất thiệt để mê hoặc, dắt mũi người sử dụng,… không còn là chuyện hiếm, đã khiến nhiều quốc gia phải xử lý bằng pháp luật. Như tại Mỹ: J. Britton (J. Bờ-ri-tơn) bị kết án một năm tù sau khi đăng tải hàng loạt câu chữ trên Twitter kích động giết tổng thống, sinh viên Ai Cập E. Elsayed 
(E. En-say-ét) bị mật vụ liên bang bắt giữ vì viết trên Facebook lời đe dọa đối với ứng cử viên tổng thống Mỹ D.Trump, thẩm phán từ chối nộp bảo lãnh tại ngoại, ra lệnh trục xuất E. Elsayed. Tại Anh: J.Blackshaw (J.Bơ-lác-so) và P.S.Keenan (P.S Ki-nân) đã bị tuyên phạt 4 năm tù vì lên Facebook kích động bạo loạn. Tại Mê-xi-cô: G.M Vera (G.M Vê-ra) và J.B Pagola (J.B Pa-gô-la) phải đối mặt với bản án 30 năm tù vì bị cáo buộc sử dụng Twitter để phát tán thông tin thất thiệt về việc tiến công một trường học. Tại Thái-lan: P.Chankij (P.Chan-ky) là một bảo mẫu, đã bị tòa án quân sự Thái-lan tuyên án vì đã lên Facebook xúc phạm nhà vua - một trong những tội rất nặng tại Thái-lan…
Ở Việt Nam, trong khi số đông người sử dụng mạng xã hội coi đây là nơi bày tỏ ý kiến nghiêm túc về các vấn đề họ quan tâm thì lại có một số người lợi dụng mạng xã hội để công bố tin tức bịa đặt, dối trá hoặc đưa ra ý kiến tiêu cực nhằm gây bất an trong dư luận. Các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí cũng lợi dụng và biến mạng xã hội thành ma trận của các thủ đoạn "tuyên truyền trắng, xám, đen" để lung lạc đời sống tinh thần xã hội, tiến công vào Ðảng, Nhà nước Việt Nam. Loại thông tin độc hại này đã trực tiếp làm mạng xã hội trở thành thế giới ảo theo đúng nghĩa đen, và làm cho thiện chí, sự lương thiện của hàng triệu người lành mạnh, tử tế dùng mạng xã hội như bị chìm lấp trong trận đồ bát quái giữa thật và giả, giữa trắng và đen, giữa tích cực và tiêu cực… Ðiều này không có gì mới, khi mà ngay cả các địa chỉ truyền thông tiếng tăm cũng không phải nơi có thể trao gửi tin cậy về thông tin. Ví như đầu năm 2016, sau khi khai thác thông tin bịa đặt từ Facebook để viết bài về việc hạn chế sử dụng súng tại Mỹ, tờ The New York Times phải chỉnh sửa và đính chính. Với Việt Nam, còn đó chuyện dối trá của BBC về "blogger Nguyễn Văn Hải - Ðiếu cày, bị mất một tay trong tù". Còn đó việc BBC phải công nhận sai sót, đính chính và cảm ơn nhà báo A. Primo (A. Pri-mô), vì đã phát hiện, chỉnh sửa lỗi do BBC đăng tải tin tức liên quan tới tình hình Xy-ri... Sự thật này cho thấy BBC không có tư cách để bàn luận vai trò của mạng xã hội ở Việt Nam. Và xét đến cùng, việc BBC phóng đại, gán cho mạng xã hội chức năng phản biện, cung cấp thông tin, sức mạnh truyền thông,… chỉ là nhằm hợp thức hóa mưu đồ đen tối là đánh đồng việc làm của hàng triệu người tử tế với thủ đoạn của một số kẻ lợi dụng mạng xã hội làm công cụ thực hành cái xấu.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, từ thái độ trách nhiệm với nhân dân, lãnh đạo cùng chính quyền các cấp ở Việt Nam vừa chịu sự giám sát của nhân dân, vừa luôn lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, để từ đó phục vụ lợi ích của nhân dân ngày càng tốt hơn, đồng thời phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ cương, trừng trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của xã hội và nhân dân. Và mạng xã hội là một trong nhiều kênh thông tin có thể giúp lãnh đạo, chính quyền các cấp làm tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, dẫu mạng xã hội phong phú, đa dạng đến mức nào thì việc tiếp nhận thông tin từ đó vẫn đòi hỏi phải sàng lọc, tỉnh táo. Bởi, như mọi sản phẩm khác của văn minh nhân loại, sự hữu dụng và tính tích cực của mạng xã hội như thế nào trước hết phụ thuộc vào người sử dụng.
LAM SƠN

Monday, October 3, 2016

Nhiều thành tựu về bảo đảm quyền con người đã được ghi nhận



Thông tin trên được Vụ các Tổ chức quốc tế (Bộ Ngoại giao) đưa ra tại Hội nghị cung cấp thông tin về công tác nhân quyền cho báo chí ngày 28/7 tại Hà Nội.

Những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá, thu nhập bình quân đầu người từ 1.024 USD/năm (2008) đã tăng lên 2.200 USD (ước tính năm 2016), gia nhập nhóm các nước thu nhập trung bình thấp từ năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 13,7% năm 2008 còn dưới 5% vào 2015.

Cũng theo thông tin từ Vụ các tổ chức quốc tế, hiện Việt Nam tham gia 7/9 công ước quốc tế cơ bản về quyền con người và tuân thủ nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người. Hiện, Việt Nam đang hoàn chỉnh báo cáo quốc gia theo Công ước ICCPR (Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị) và trong quá trình xây dựng báo cáo quốc gia theo Công ước chống tra tấn (CAT).

Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia 20 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 5 Công ước cơ bản về các vấn đề lao động, việc làm như lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, phân biệt đối xử…; nghiêm túc thực hiện Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ I và II. Tại báo cáo UPR chu kỳ II, Việt Nam chấp nhận 182/227 khuyến nghị (chiếm hơn 80%). Thủ tướng chính phủ cũng đã thông qua Kế hoạch triển khai thực hiện công ước CAT và Kế hoạch tổng thể triển khai các khuyến nghị UPR chu kỳ II.

Với những nỗ lực của mình, Việt Nam được tín nhiệm bầu làm thành viên tại nhiều cơ chế quan trọng của Liên Hợp quốc về quyền con người như Hội đồng Nhân quyền 2014-2016, Hội đồng Kinh tế-Xã hội 2016-2018…

Tại Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam được các quốc gia đánh giá cao về cách tiếp cận, ủng hộ đối thoại và hợp tác trong vấn đề quyền con người; khẳng định dấu ấn trên nhiều vấn đề, đặc biệt liên quan tới quyền kinh tế-xã hội, quyền phát triển.

Bên cạnh những thành tựu trên, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân. Về tôn giáo, Luật pháp nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Hiến pháp cũng quy định quyền tự do lập hội, hội họp và việc này được bảo vệ bằng nhiều văn bản luật và dưới luật. Tính đến hết 2015, Việt Nam có khoảng hơn 52.500 hội và hiện dự thảo Luật về Hội đang được xây dựng. Ngoài ra, Việt Nam cũng luôn nỗ lực và đạt nhiều thành tựu trong việc đảm bảo quyền của các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và LGBT./.

Theo Vietnam+

Xóa đói giảm nghèo bền vững, chống tái nghèo – thành tựu, thách thức và giải pháp

nong-thon-moi

Xóa đói giảm nghèo bền vững, chống tái nghèo – thành tựu, thách thức và giải pháp

1. Những kết quả đạt được
Theo Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012 của Ngân hàng thế giới (WB), hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói nghèo trong hai thập kỷ qua. Nghèo đói ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng từ 60% hồi đầu những năm 1990 xuống còn 20,7%; tỷ lệ nhập học tiểu học và trung học cơ sở là hơn 90% và 70%.
Theo đánh giá của Tổ chức Nông lương Liên Hợp quốc (FAO), Việt Nam là một trong những nước đạt được thành tích nổi bật trong việc giảm số người bị đói từ 46,9% (32,16 triệu người) giai đoạn 1990-1992 xuống còn 9% (8,01 triệu người) trong giai đoạn 2010-2012, và đã đạt được Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 1 (MDG1), hướng tới mục tiêu giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015.
Thực hiện chủ trương giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020, Bộ Lao động – thương binh xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành thực hiện rà soát toàn bộ hệ thống chính sách giảm nghèo hiện hành gồm 153 văn bản, tập trung vào 6 nhóm chính sách chủ yếu: tín dụng ưu đãi; giáo dục – đào tạo; y tế; nhà ở; đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; hỗ trợ sinh kế; trợ giúp pháp lý. Qua rà soát, hiện có 149 văn bản còn hiệu lực, trong đó có 20 văn bản được đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế và 28 văn bản được đề xuất ban hành mới. Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo Trung ương còn thực hiện sửa đổi, bổ sung các chính sách và dự kiến ban hành các chính sách mới đồng thời tích hợp các chính sách giảm nghèo như hỗ trợ học sinh bán trú nghèo dân tộc thiểu số, hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hỗ trợ tiền điện, đào tạo nghề, hỗ trợ phát triển sản xuất và sinh kế.
Tính đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 1,8-2%/năm, riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5%/năm. Việc thực hiện các chính sách giảm nghèo chung và chính sách giảm nghèo đặc thù tiếp tục được triển khai. Năm 2014, ngân sách đã chi khoảng gần 13 nghìn tỷ đồng để mua cấp thẻ BHYT cho các đối tượng, trong đó gần 10 triệu người nghèo và cận nghèo được hỗ trợ thẻ BHYT; gần 2 triệu lượt học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ chi phí học tập với số tiền hơn 7 nghìn tỷ đồng; Ngân hàng chính sách xã hội đã cho hơn 400 nghìn lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hơn 60 nghìn học sinh nghèo được vay vốn học tập… Các chính sách giảm nghèo đối với các xã trên địa bàn huyện nghèo theo Nghị quyết 30a tiếp tục được thực hiện.
Về nguồn lực cho giảm nghèo, Nhà nước ưu tiên tập trung cao nhất từ ngân sách cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong năm 2014, tổng nguồn vốn để thực hiện mục tiêu giảm nghèo khoảng 34,7 nghìn tỷ đồng, trong đó, ngân sách trung ương bố trí hơn 6 nghìn tỷ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Ngoài các doanh nghiệp đã nhận hỗ trợ các huyện theo cam kết, năm 2014, đã có thêm Tổng Công ty Hoá chất và Tổng Công ty Rượu – Bia – Nước giải khát Hà Nội nhận hỗ trợ tỉnh Bắc Giang và Hà Giang.
Theo báo cáo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh ở tất cả các địa phương. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo là 5,97%, cuối năm 2015 còn dưới 5%. Đối với các xã nghèo thuộc diện 30a, tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 28%.
Như vậy, sau 5 năm thực hiện mục tiêu giảm nghèo quốc gia, Việt Nam đã đạt được mục tiêu đề ra và được thế giới đánh giá là 1 trong 6 quốc gia hoàn thành mục tiêu trước thời hạn và là điểm sáng về thực hiện mục tiêu giảm nghèo.
song-kien-giang, Xóa đói giảm nghèo bền vững
2. Những thách thức mới
Tuy đạt được những thành tích đáng mừng nhưng công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam vẫn đang đối mặt với những thách thức trong quá trình thực hiện như giảm nghèo chưa đồng đều; tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc còn cao; giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ tái nghèo ở một số nơi còn cao; chính sách còn chồng chéo, nguồn lực còn đầu tư dàn trải… “Hiện nay, khu vực rốn nghèo vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tôc thiểu số. Nếu nhìn tốc độ giảm nghèo trong 5 năm thì đây lại là vùng có tốc độ giảm nhanh nhất, mỗi năm khoảng 10%. Song, do khoảng cách nghèo quá lớn so với các vùng khác nên những vùng này vẫn còn khoảng 40-50% hộ nghèo. Cá biệt có một huyện hộ nghèo còn trên 60%, có 7 huyện nghèo hộ nghèo chiếm từ 50-60%…”
Phần lớn những người nghèo còn lại sống ở vùng nông thôn xa xôi, hạn chế về tài sản, trình độ học vấn và điều kiện sức khỏe.
Người trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao. Đồng bào các dân tộc thiểu số chỉ chiếm gần 15% dân số cả nước nhưng chiếm tới 47% tổng số người nghèo năm 2010, so với 29% năm 1998.
Người nghèo ngày khó tiếp cận với các điều kiện giảm nghèo chung do không theo kịp tốc độ gia tăng của các điều kiện giảm nghèo, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số.
Tình trạng chính sách chồng chéo, khó thực hiện, hoặc có chính sách mà không cân đối được nguồn lực để thực hiện; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo, tình trạng huy động nguồn lực chưa đáp ứng được nhu cầu, sử dụng nguồn lực hiệu quả chưa cao, có nơi chưa dành ưu tiên cho công tác giảm nghèo hoặc trông chờ, ỷ lại và ngân sách Trung ương.
Một hạn chế lớn nữa là có nơi, có lúc nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ về công tác xóa đói giảm nghèo chưa đúng mức, trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các biện pháp xóa đói giảm nghèo.
Bên cạnh những thách thức giảm nghèo bền vững là một số thách thức mới như: Bất ổn vĩ mô ngày càng tăng khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại; nghèo tại khu vực thành thị gia tăng do tốc độ đô thị hóa nhanh khiến người dân gặp khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi và nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển…
3. Phương hướng và giải pháp
Trong điều kiện tình hình kinh tế – xã hội khó khăn, cả nước tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách, dự án giảm nghèo theo hướng bền vững, tăng cường khả năng tiếp cận của đối tượng thụ hưởng và sự tham gia của người nghèo; tập trung chỉ đạo đẩy mạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững. Quốc hội thông qua Nghị quyết về hai Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới (giảm từ 16 Chương trình xuống còn 2 Chương trình mục tiêu) để dành nguồn lực đầu tư tập trung, bảo đảm giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tăng thu nhập của người nghèo.
Mục tiêu cụ thể là giảm tỷ lệ nghèo cả nước bình quân 1-1,5%/năm; riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm (theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016-2020); tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, cận nghèo như y tế, giáo dục, điều kiện sống cơ bản, thông tin, bảo hiểm, trợ giúp xã hội…
Theo đó, chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng giai đoạn 2016-2020 được Chính phủ phê duyệt, về thu nhập là 700 nghìn đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn; 900 nghìn đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Với mức thu nhập này, tỷ lệ hộ nghèo cả nước sẽ vào khoảng 12% và tỷ lệ hộ cận nghèo khoảng 6%.
Chương trình thực hiện trên phạm vi cả nước; ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản khó khăn.
Kinh phí thực hiện chương trình từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, tối thiểu là 46.161 tỷ đồng; trong đó ngân sách trung ương là 41.449 tỷ đồng và 4.712 tỷ đồng từ nguồn ngân sách địa phương.
Để đảm giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cầntriển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó tập trung vào các nhóm giải pháp cơ bản:
Thứ nhất, các bộ, ngành, địa phương phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của đất nước; phải coi công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là một tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền.
Thứ hai, tập trung rà soát chính sách để loại bỏ những điểm không còn phù hợp và bổ sung những chính sách mới, phù hợp. Các chính sách sửa đổi, bổ sung phải hướng vào hỗ trợ hộ nghèo, hỗ trợ vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng hỗ trợ sản xuất và hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hỗ trợ sản xuất tập trung vào hỗ trợ trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc; giao đất, giao rừng cho người dân gắn với phát triển và bảo vệ rừng, điều chỉnh các chính sách về giữ rừng, bảo vệ rừng; hỗ trợ lương thực, giống, khuyến nông, đào tạo nghề, lãi suất cho vay phát triển sản xuất; hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn khó khăn và thu hút lao động tại chỗ gắn với hỗ trợ đào tạo nghề thông qua doanh nghiệp.
Hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản như nhà ở, nước sạch, bảo hiểm y tế, giáo dục, tiếp cận thông tin, đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội.
Thứ ba, huy động các nguồn lực cho công tác giảm nghèo và thực hiện lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Cùng với nguồn đầu tư từ ngân sách, cần huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của các tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng; khuyến khích sự nỗ lực của người nghèo, hộ nghèo.
Ngân hàng Chính sách xã hội tăng thêm dư nợ tín dụng người nghèo so với chỉ tiêu 10% hiện nay để tăng mức hỗ trợ và mở rộng đối tượng hộ nghèo được hỗ trợ tín dụng chính sách; bảo đảm mục tiêu thoát nghèo bền vững.
Thứ tư, Ban Chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020 tổng kết, đánh giá chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011-2015 và xây dựng Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với những tiêu chuẩn, tiêu chí cao hơn, gắn với việc xây dựng, ban hành và thực hiện chuẩn nghèo mới. Khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định về chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách xóa đói, giảm nghèo và hỗ trợ đồng bào dân tộc trong thời gian tới.
_________________
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng Thế giới: Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam 2012: “Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn thành: thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới”.
2. “FAO vinh danh Việt Nam về thành tích xóa đói giảm nghèo”, báo Tuổi trẻ Online.
3. “Thực hiện chiến lược xóa đói, giảm nghèo: Thành tựu ấn tượng nhưng còn nhiều thách thức”, báo Quân đội Nhân dân.
4. “Những kết quả xóa đói giảm nghèo trên thế giới và bài học kinh nghiệm”, Đại học Kinh tế Quốc dân.
5. “Chương trình xoá đói giảm nghèo: Kinh nghiệm từ Braxin”, theo Sài Gòn tiếp thị Online.
Ngô Thị Quang – Đại học Nông lâm Thái Nguyên
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/

Algeria đánh giá cao những thành tựu phát triển của Việt Nam

Ngày 20/7, Chủ tịch Thượng viện Algeria Abdelkader Bensalah đã tiếp Đại sứ Việt Nam Vũ Thế Hiệp đến chào từ biệt nhân kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Algeria. 

algeria danh gia cao nhung thanh tuu phat trien cua viet nam
Đại sứ Việt Nam tại Algeria Vũ Thế Hiệp. (Nguồn: TTXVN)
Tại buổi tiếp, Chủ tịch Thượng viện Algeria chúc mừng Việt Nam đã giành được những thành tựu phát triển mọi mặt trong thời gian qua, đồng thời khẳng định những thành công trong phát triển kinh tế của Việt Nam là một hình mẫu để Algeria có thể học hỏi trong tiến tình phát triển đất nước. Ngài Bensalah nhấn mạnh Algeria luôn mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam.
Nhân dịp này, Chủ tịch Thượng viện Bensalah chúc mừng Đại sứ Vũ Thế Hiệp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Algeria và ca ngợi nhiều hoạt động của Đại sứ góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Algeria. Bày tỏ vui mừng về các lĩnh vực hợp tác giữa hai nước thời gian qua phát triển tốt đẹp, ông Bensalah tin tưởng rằng thời gian tới, các lĩnh vực hợp tác giữa hai nước sẽ tiếp tục được thúc đẩy.
Về phần mình, Đại sứ Vũ Thế Hiệp cảm ơn Chủ tịch Thượng viện Algeria đã dành thời gian cho cuộc tiếp. Đại sứ bày tỏ sự hài lòng vì trong nhiệm kỳ 3 năm công tác tại Algeria đã diễn ra nhiều hoạt động thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước đã được tăng cường thông qua duy trì và đẩy mạnh các cuộc tiếp xúc và trao đổi đoàn giữa hai nước trên tất cả các cấp và các kênh quan hệ là Nhà nước, Quốc hội và Đảng. Nổi bật là Chủ tịch Hạ viện Mohamed Larbi Ould Khelifa đã dẫn đầu đoàn Quốc hội Algeria tham dự Đại hội đồng IPU-132 tại Hà Nội cuối tháng 3/2015 và chuyến thăm Algeria từ 31/5/2015 đến 2/6/2015 của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.
Trong những năm gần đây, hợp tác kinh tế giữa hai nước đã có bước chuyển biến tích cực, với kim ngạch thương mại song phương đã tăng từ 132 triệu USD năm 2012 lên 250 triệu USD năm 2014. Liên doanh dầu khí ba bên Bir Seba (Việt Nam, Algeria, Thái Lan) đã đi vào khai thác thương mại với sản lượng hiện nay là 15.000 thùng dầu/ngày. Số lao động Việt Nam làm việc cho các nhà thầu thứ 3 tại Algeria hiện lên đến khoảng 3.200 người. Các lĩnh vực hợp tác khác cũng đã có những bước phát triển tích cực.
Với nền tảng của mối quan hệ hữu nghị truyền thống và quyết tâm chính trị của lãnh đạo cấp cao hai nước, Đại sứ Vũ Thế Hiệp cho rằng trong tương lai, các lĩnh vực hợp tác giữa Algeria và Việt Nam sẽ phát triển tốt đẹp hơn nữa.
Nhân dịp này, thông qua Chủ tịch Thượng viện, Đại sứ Vũ Thế Hiệp gửi lời chào tạm biệt đến Tổng thống Abdelaziz Bouteflika, chúc Ngài Tổng thống sức khỏe dồi dào, tiếp tục lãnh đạo nhân dân Algeria đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước.

Tập trung xóa đói, giảm nghèo bền vững cho nhân dân vùng Tây Bắc

HƯƠNG THUỶ (TTXVN/VIETNAM+) Bản in
Ông Nguyễn Văn Bình, Trưởng ban Kinh tế Trung ương-Trưởng ban chỉ đạo Tây Bắc, phát biểu tại hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)

Chiều 19/7, Ban Chỉ đạo Tây Bắc đã tổ chức Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2016.

Báo cáo của Ban Chỉ đạo Tây Bắc nêu rõ 6 tháng đầu năm 2016, kinh tế-xã hội trong vùng phát triển ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng cải thiện. Kinh tế trong vùng phát triển khá, tổng sản phẩm (GRDP) tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước.

Đời sống dân cư trong vùng cơ bản ổn định. Công tác xóa đói, giảm nghèo, an sinh và phúc lợi xã hội được cấp uỷ, chính quyền các cấp quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả.

Các chính sách như tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tiền điện, cấp thẻ bảo hiểm y tế, miễn, giảm học phí cho con em hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số... được triển khai đồng bộ. Gia đình chính sách, hộ nghèo trong dịp lễ, Tết được thăm hỏi, hỗ trợ, giúp đỡ; nhân dân vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thiếu đói giáp hạt được cứu trợ kịp thời.

Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững. Các địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quốc phòng, an ninh. Tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo cơ bản ổn định.

Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, song Tây Bắc vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, đó là tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Hoạt động của các loại tội phạm chưa giảm đáng kể, sự chống phá của các thế lực phản động có nhiều diễn biến phức tạp. Việc tuyên truyền đạo trái pháp luật, tình trạng di cư tự do và hoạt động của tội phạm còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Năng lực quản lý, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng hiệu quả chưa cao...

Với chức năng nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Bắc và Cơ quan Thường trực đã chủ động nắm tình hình, phát hiện những vấn đề phát sinh trong vùng và tích cực phối hợp với các Bộ, ban, ngành Trung ương nghiên cứu, đề xuất với Trung ương Đảng, Nhà nước các biện pháp tháo gỡ, giải quyết.

Sáu tháng cuối năm, Ban Chỉ đạo Tây Bắc tiếp tục thực hiện và chuẩn bị sơ kết 5 năm việc triển khai Kết luận số 26-KL/TW ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX), nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020; triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng và của Đại hội đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020; Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 7/1/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016.

Các địa phương trong vùng đẩy mạnh tái cơ cấu ngành, lĩnh vực theo hướng phát huy lợi thế của vùng, địa phương; tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; tiếp tục cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, thu hút nguồn lực đầu tư vào địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm khác…

Kết luận Hội nghị, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc Nguyễn Văn Bình nêu rõ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành Trung ương, sự nỗ lực, cố gắng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các dân tộc, các tỉnh vùng Tây Bắc đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống. Các tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm về ma túy. Các tỉnh vùng Tây Bắc vẫn là tỉnh nghèo và có nhiều khó khăn nhất cả nước.

Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc đề nghị cần rà soát, bổ sung và hoàn thiện lại Chương trình công tác trọng tâm năm 2016 của Ban Chỉ đạo đảm bảo yêu cầu “thực tế, thiết thực, hiệu quả;” nghiên cứu, đề xuất mô hình và cơ chế chỉ đạo, cơ chế phối hợp hiệu quả giữa Ban Chỉ đạo Tây Bắc với các Bộ, ban, ngành Trung ương, các địa phương trong phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Bắc.

Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh nhiệm vụ 6 tháng cuối năm rất nặng nề, phức tạp. Ban Chỉ đạo phối hợp với các Bộ, ban, ngành rà soát, tập trung vào các chuyên đề, trên cơ sở đó đề xuất các cơ chế chính sách ổn định lâu dài phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Bắc, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông.

Các Bộ, ngành Trung ương và địa phương trong vùng cần quan tâm chăm lo đời sống, tập trung xóa đói, giảm nghèo bền vững cho nhân dân vùng Tây Bắc; tăng cường các hoạt động đối ngoại, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị và phát triển; chủ động trao đổi, hội đàm với các địa phương của nước láng giềng có chung đường biên giới trong công tác bảo đảm an ninh biên giới và hội nhập phát triển kinh tế. Các địa phương tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn./.

Thành tựu y tế nổi bật của Việt Nam trong hội nhập quốc tế

SKĐS - Những thành tựu trong khống chế các đại dịch toàn cầu, thành tựu kỹ thuật cao như ghép tạng, và việc Việt Nam là chủ nhà của nhiều sự kiện y tế quan trọng mang tính khu vực và toàn cầu đã đưa vị thế của ngành y tế Việt Nam lên một tầm cao mới.
Ngành y tế Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong hội nhập quốc tế, đóng góp tích cực vào sự phát triển của y tế nước nhà và y học thế giới, nâng cao uy tín và vị thế của ngành và đất nước trên trường quốc tế.
Thành tựu y học kỹ thuật cao ghi dấu ấn trên bản đồ thế giới
Y học Việt Nam khẳng định được vị thế của mình trong các lĩnh vực như: ghép tạng, can thiệp tim mạch, ung bướu, nội soi phẫu thuật, can thiệp chấn thương chỉnh hình, ứng dụng tế bào gốc, hỗ trợ sinh sản, tách song sinh, nhãn khoa... Việc các bác sĩ Việt Nam ứng dụng và triển khai thành công những kỹ thuật cao đã từng bước đáp ứng kịp thời nhu cầu khám, điều trị bệnh của người dân trong nước, góp phần hạn chế số người dân ra nước ngoài chữa bệnh và bước đầu thu hút người nước ngoài sang Việt Nam chữa bệnh. Tên tuổi các giáo sư, bác sĩ của Việt Nam cũng được nhiều nước trên thế giới biết đến.
Khống chế thành công những đại dịch toàn cầu

Trong công tác phòng chống dịch, Việt Nam đã góp phần quan trọng vào lĩnh vực an ninh y tế toàn cầu. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới khống chế thành công dịch SARS năm 2003, cũng như là quốc gia đầu tiên của Khu vực Tây Thái Bình Dương thanh toán được bệnh bại liệt vào năm 2010. Năm 2013, Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận đạt các năng lực cốt lõi của Điều lệ Y tế Quốc tế (IHR). Các dịch bệnh khác như cúm H5N1, H7N9, H1N1, H2N3, Ebola… được khống chế thành công, không để dịch xâm nhập vào Việt Nam. Với những thành công đó, Việt Nam là 1 trong 2 quốc gia trên thế giới được Chính phủ Hoa Kỳ chọn thí điểm tham gia Mạng lưới an ninh y tế toàn cầu. Công tác phòng, chống lao, sốt rét, HIV cũng được được bảo đảm và đạt các kết quả tích cực, là cơ sở để Việt Nam được các nước mời chia sẻ kinh nghiệm trong các lĩnh vực này.

Việt Nam đạt chuẩn quốc tế về vaccine

Sau 14 năm phấn đấu, Việt Nam đã chính thức trở thành 1 trong 39 nước được WHO công nhận đạt tiêu chuẩn Hệ thống Quản lý Quốc gia về vaccine (NRA) vào năm 2015. Thành công này không những giúp tiết kiệm chi phí nhập khẩu vaccine ngoại mà còn mở ra cơ hội xuất khẩu cho vaccine nội, đồng thời hỗ trợ tích cực cho công tác tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã chủ động sản xuất được nhiều loại vaccine, trong đó có 10 vaccine trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Việt Nam cũng đã học tập được các công nghệ của Nhật Bản trong việc sản xuất và điều chế các loại vaccine.


Thanh-tuu-y-te-noi-bat-cua-Viet-Nam-trong-hoi-nhap-quoc-te
Bộ trưởng Y tế PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Tiến dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự kỳ họp Hội đồng chấp hành của Đại hội đồng Y tế Thế giới tháng 5.2016

Việt Nam sớm đạt các mục tiêu thiên niên kỷ về y tế
Việt Nam là một trong 10 quốc gia đi đầu trên thế giới trong việc thực hiện đúng lộ trình Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), đặc biệt là 5 mục tiêu liên quan đến y tế. Việt Nam đã hoàn thành và cần duy trì bền vững các chỉ tiêu giảm 1/2 tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và giảm 1/2 tỷ lệ người dân không được tiếp cận nước an toàn và điều kiện vệ sinh cơ bản. Các mục tiêu còn lại đều đã giảm nhanh và đạt mục tiêu đề ra vào năm 2015, đó là: giảm 2/3 tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi; giảm 3/4 tỷ số tử vong mẹ; phổ cập tiếp cận chăm sóc sức khỏe sinh sản; chặn đứng và bắt đầu đẩy lùi sự lây lan của HIV/AIDS; tiếp cận phổ cập tới điều trị HIV/AIDS cho tất cả những người có nhu cầu; chặn đứng và bắt đầu giảm số trường hợp mắc sốt rét và các bệnh phổ biến khác.
Dấu ấn Việt Nam trong hội nhập y tế
Việt Nam - chủ nhà của nhiều sự kiện y tế khu vực và toàn cầu
Liên tục trong các năm qua, Việt Nam đã đăng cai tổ chức và chủ trì thành công nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế lớn và các sự kiện quốc tế quan trọng như: Hội nghị Bộ trưởng APEC về cúm gia cầm và đại dịch cúm; Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN, ASEAN +3; Hội nghị các đối tác Liên minh tiêm chủng và vaccine toàn cầu; Hội nghị khu vực Tây Thái Bình Dương của WHO. Việc tổ chức thành công các sự kiện y tế quốc tế quan trọng đã khẳng định thêm một bước quá trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền y tế thế giới.
Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực y tế. Việt Nam đã đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ và cán bộ y tế cho các nước láng giếng như Lào, Campuchia. Trong những thiên tai thảm họa, như cơn bão Nargis năm 2013, Việt Nam cử chuyên gia sang giúp đỡ Myanmar. Việt Nam cũng đã cử hàng trăm lượt chuyên gia sang các nước châu Phi chữa bệnh cho người dân và được các nước đánh giá cao. Khi xảy ra dịch bệnh, Việt Nam cử đội ngũ chuyên gia y tế sang giúp các quốc gia.
Với những đóng góp tích cực, Việt Nam ngày càng được tín nhiệm bầu vào các vị trí quốc tế quan trọng, như Chủ tịch Hội nghị các Bộ trưởng Y tế ASEAN, thành viên Hội đồng Chấp hành toàn cầu của WHO và các vị trí quốc tế quan trọng khác.
Thời gian tới, dù còn nhiều khó khăn, song với sự quan tâm và đầu tư của toàn hệ thống chính trị, nỗ lực của toàn ngành, sự tham gia tích cực của người dân và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, ngành y tế sẽ tiếp tục hội nhập, phát triển, đóng góp chung vào quá trình hội nhập quốc tế của đất nước và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.


Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã huy động được các nguồn lực to lớn cả về tài chính và kỹ thuật cho sự phát triển của ngành y. Hiện Bộ Y tế đang quản lý 35 chương trình và các dự án ODA lớn với tổng kinh phí 31.080 tỷ đồng (tương đương 1,58 tỷ USD). Các dự án viện trợ được triển khai tốt, góp phần quan trọng vào các hoạt động của ngành, như: xây mới, nâng cấp nhiều cơ sở đào tạo, khám chữa bệnh; mua sắm trang thiết bị, hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực y tế, hỗ trợ xây dựng và thực hiện chính sách; hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và nghiên cứu khoa học.


TS. BS. Trần Thị Giáng Hương
(Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Y tế)

Việt Nam khẳng định phát triển bền vững, bảo đảm quyền con người

(TTXVN/VIETNAM+) Bản in
Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại LHQ Nguyễn Phương Nga. (Ảnh: Ảnh: Lê Dương/TTXVN)

Ngày 12-13/7, Chủ tịch Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức Phiên thảo luận chuyên đề về quyền con người.

Đây là phiên thứ ba và là phiên cuối cùng (hai phiên thảo luận trước về các Mục tiêu Phát triển bền vững và hòa bình, an ninh diễn ra lần lượt trong tháng Tư và tháng Năm năm nay) trong chuỗi thảo luận chuyên đề theo sáng kiến của Chủ tịch Đại Hội đồng nhằm làm sâu sắc mối quan hệ giữa ba trụ cột của Liên hợp quốc là hòa bình, an ninh, phát triển và quyền con người; và thúc đẩy các cam kết, hành động mới để thực hiện các mục tiêu, trụ cột này.

Phiên thảo luận diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 50 năm Công ước Quyền Kinh tế, Văn hóa, Xã hội (CESCR) và Công ước Quyền Dân sự, Chính trị (CCPR) và 30 năm Tuyên bố Quyền Phát triển.

Phát biểu tại Phiên thảo luận, Đại sứ Nguyễn Phương Nga, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc nhấn mạnh các nước có trách nhiệm hàng đầu trong thúc đẩy và bảo đảm quyền con người; Liên hợp quốc đóng vai trò trung tâm thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong lĩnh vực này, nhấn mạnh Hội đồng Nhân quyền (HRC), với cơ chế báo cáo kiểm điểm định kỳ (UPR), đã phát huy vai trò tăng cường hợp tác và đối thoại về quyền con người giữa các nước.

Trưởng Phái đoàn Việt Nam nêu rõ nhân quyền, hòa bình, ổn định và phát triển có mối quan hệ mật thiết và không thể tách rời: hòa bình, ổn định và phát triển tạo nên nền tảng vững chắc cho việc thụ hưởng đầy đủ các quyền con người; trong khi đó việc thúc đẩy và bảo đảm nhân quyền là thiết yếu để củng cố hòa bình ổn định và thực hiện phát triển bền vững.

Chương trình Nghị sự Phát triển Bền vững 2030 đã lồng ghép những nội dung quan trọng của quyền con người, trong đó có quyền phát triển, xóa bất bình đẳng, quan tâm tới các nhóm dễ bị tổn thương. Việc thực hiện Chương trình nghị sự này sẽ góp phần giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bất ổn và xung đột.

Đại sứ Nguyễn Phương Nga khẳng định Việt Nam luôn nỗ lực để bảo đảm hòa bình ổn định, thúc đẩy phát triển bền vững, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Với tư cách thành viên có trách nhiệm của Hội đồng Nhân quyền và Hội đồng Kinh tế-Xã hội Liên hợp quốc, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước, các đối tác trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người trên phạm vi toàn cầu và thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững./.

Thành tựu của Việt Nam thời gian qua có sự đóng góp tích cực của khoa học và công nghệ

Cập nhật lúc: 11 Tháng Bảy 2016 2:54:17 CH

Chiều 9/7/2016, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã có buổi gặp mặt Đoàn các giáo sư đoạt giải Nobel và các nhà khoa học quốc tế tham dự Hội nghị quốc tế “Khoa học cơ bản và xã hội”. Cùng dự buổi gặp mặt có Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh.

Hội nghị quốc tế “Khoa học cơ bản và xã hội” là một trong những hoạt động lớn nhất của chuỗi các sự kiện trong Chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ XII năm 2016. Hội thảo do Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Định, Bộ Khoa học và Công nghệ và Hội Gặp gỡ Việt Nam... đồng tổ chức; Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) bảo trợ.

Hội nghị quốc tế “Khoa học cơ bản và xã hội” đề xuất những vấn đề liên quan tới khoa học cơ bản và xã hội ở các nước châu Á nói chung, đặc biệt ở các nước đang phát triển xung quanh Việt Nam, với những chủ đề đặc thù của các nước này; tạo cơ hội để các nhà khoa học trao đổi với các nhà hoạch định chính sách và đại diện của khu vực kinh tế tư nhân về tầm quan trọng của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Hội nghị năm nay quy tụ nhiều nhà khoa học tên tuổi thế giới như: David Gross (Nobel Vật lý 2004); Carlo Rubbia (Nobel Vật lý 1984); Jerome Fiedman (Nobel Vật lý 1990); Kurt Wuthrich (Nobel Hóa học 2002); Finn Kydland (Nobel Kinh tế 2004) và Jean Jouzel (Nobel Hòa bình 2007)…

Hội nghị có các chủ đề chính như: Tầm quan trọng của theo đuổi khoa học cơ bản ở các nước mới nổi; chuyên đề khoa học cơ bản và sự phát triển bền vững; nghiên cứu cơ bản và hòa bình; nghiên cứu cơ bản và khí hậu; nghiên cứu cơ bản và sức khỏe; nghiên cứu cơ bản và sự giáo dục cơ bản toàn cầu, kiến thức và công nghệ; chuyên đề nghiên cứu cơ bản, mở cửa đổi mới và hợp tác quốc tế… Các chuyên đề tại hội nghị đều do các Giáo sư đoạt giải thưởng Nobel và các nhà khoa học danh tiếng trên thế giới điều hành.

Chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ XII năm 2016 là một trong những hoạt động của Hội Gặp gỡ Việt Nam nhằm tham gia vào chương trình phát triển khoa học và giáo dục quốc gia.

Tại buổi gặp mặt, Giáo sư Trần Thanh Vân, một số nhà khoa học quốc tế đã nêu ý kiến gợi mở, đóng góp với Nhà nước Việt Nam về việc tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu.

Phát biểu với các nhà khoa học quốc tế, Chủ tịch nước Trần Đại Quang thông báo, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có bước phát triển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoai ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao...

Chủ tịch nước khẳng định, trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn dành cho khoa học và công nghệ sự quan tâm đặc biệt, là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội... Những thành tựu của Việt Nam thời gian qua có sự đóng góp tích cực của khoa học và công nghệ, trong đó có khoa học cơ bản.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng nêu rõ, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, khoa học và công nghệ Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Khoa học cơ bản của Việt Nam đã đạt được vị trí trong tốp đầu của các nước ASEAN. Năm 2015, Trung tâm Vật lý quốc tế và Trung tâm quốc tế về đào tạo và nghiên cứu toán học của Việt Nam đã trở thành 2 trong 66 cơ sở nghiên cứu khoa học tự nhiên được UNESCO công nhận và bảo trợ. Đặc biệt, từ năm 1974 đến nay, các đoàn học sinh thi toán quốc tế Olympic của Việt Nam luôn đạt giải cao và nằm trong số 10 nước đứng đầu thế giới.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang đánh giá cao và trân trọng cảm ơn những đóng góp đầy tâm huyết từ nhiều năm nay của Giáo sư Trần Thanh Vân và Phu nhân - Giáo sư Lê Kim Ngọc trong việc tổ chức các chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” tại thành phố Quy Nhơn (Bình Định) để thiết lập mạng lưới kết nối các nhà khoa học quốc tế với cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam. Chủ tịch nước cho rằng, các hội nghị khoa học quốc tế và các chuỗi sự kiện của Chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” là cơ hội để các nhà khoa học Việt Nam trực tiếp trao đổi, học hỏi các nhà khoa học quốc tế, tiếp thu những tri thức mới nhất, thiết lập quan hệ hợp tác lâu dài và ngày càng hội nhập sâu rộng với khoa học thế giới.

Thay mặt Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cảm ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức khoa học, các nhà khoa học quốc tế đã dành cho đất nước, nền khoa học của Việt Nam. Chủ tịch nước nhấn mạnh, sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức khoa học, các nhà khoa học quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng giúp Việt Nam đạt được những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, nhất là trong các lĩnh vực nghiên cứu mới mà Việt Nam còn thiếu nhân lực, kinh nghiệm. Chủ tịch nước mong muốn và đề nghị các giáo sư, nhà khoa học quốc tế tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nhân lực khoa học, kết nối với cộng đồng khoa học trên thế giới; giới thiệu các nhà khoa học quốc tế đến với Việt Nam, cũng như với nền khoa học Việt Nam.
Theo TTXVN