Thursday, April 18, 2019

Nhiều thành tựu y học nổi bật ngang tầm khu vực và thế giới

Cập nhật: 26/02/2019 10:48

(Thanh tra)- Được đánh giá là một ngành luôn trải qua nhiều “sóng gió”, bị nhiều “tai tiếng”, nhưng những năm qua, ngành Y tế đã vượt qua mọi khó khăn, vươn lên đạt được nhiều thành tựu vượt bậc ngang tầm với y học của khu vực và thế giới.

    Nhiều thành tựu y học nổi bật ngang tầm khu vực và thế giới
    Việt Nam đã sản xuất được nhiều vắc xin phòng bệnh. Ảnh: PA
    Những năm qua, nền y học Việt Nam đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, từ nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, trình độ y sỹ, bác sỹ, đặc biệt là nghiên cứu, áp dụng thành công những tiến bộ khoa học hiện đại vào thực tế điều trị. Dấu ấn của những tiến bộ kỹ thuật mới này là sự tâm huyết, sáng tạo và những nỗ lực vượt qua khó khăn của các y, bác sỹ Việt Nam. 
    Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, thành tựu mà ngành Y tế đạt được hôm nay luôn là sự kế thừa và kết quả từ sự đầu tư và hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp của Đảng, Nhà nước, sự chung tay của cả cộng đồng, trong đó Bộ Y tế giữ vai trò đầu tàu trong chỉ đạo và điều hành.
    Khẳng định làm chủ công nghệ
    Năm 2018 đã khép lại với nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực y tế. Ở mảng khoa học và ứng dụng các kỹ thuật y học hiện đại, có thể nêu những thành tựu nổi bật như: Việt Nam tiếp tục được công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ sản xuất vắc xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc xin; đánh dấu tiếp một vắc xin được sản xuất và đủ điều kiện thương mại hóa như vắc xin cúm mùa 3 type. Ứng dụng công nghệ sinh học vào sàng lọc và chẩn đoán phát hiện nhanh, chính xác các tác nhân gây dịch như sởi, sốt xuất huyết, tay chân miệng, là cơ sở để không xảy ra dịch trên quy mô lớn như các năm trước đây.
    Cùng với đó, chúng ta cũng tiếp tục khẳng định làm chủ công nghệ ghép đa tạng, ngoài các kỹ thuật thường quy về ghép tim, ghép gan, ghép thận, ghép tủy, giác mạc, năm 2018 thực hiện thành công ghép phổi; Tiếp tục làm chủ, hoàn thiện đưa nhiều kỹ thuật y học Việt Nam đạt tầm thế giới (can thiệp mạch, phẫu thuật nội soi, hỗ trợ sinh sản); Thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị như phẫu thuật nội soi, can thiệp tim mạch, chẩn đoán hình ảnh, hỗ trợ sinh sản, điều trị ung thư máu, nhồi máu cơ tim, bệnh lý xương - khớp, bỏng, phẫu thuật tạo hình; ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh về máu.
    Trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, có thể điểm ra những thành tựu nổi bật như củng cố mạng lưới khám, chữa bệnh từ Trung ương đến xã với hơn 1.400 bệnh viện, 180.000 giường bệnh, hàng năm khám và điều trị ngoại trú cho 120.000 lượt người bệnh, điều trị cho hơn 10 triệu lượt người, thực hiện hàng triệu thủ thuật, khoảng 2 triệu ca phẫu thuật phức tạp hàng năm.
    “Các trung tâm y tế chuyên sâu đang được triển khai hiệu quả. Nhờ đó, nhiều kỹ thuật về chẩn đoán, phẫu thuật và điều trị ngang tầm với các nước trong khu vực, như thụ tinh trong ống nghiệm, ghép tạng, trong đó đã ghép tim thành công. Cho đến nay, hệ thống y tế nước ta đã có 15 cơ sở ghép được tim, thận, gan, ghép giác mạc, ghép tế bào gốc tạo máu…”, Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết thêm.
    Lấy người dân làm trung tâm
    Năm 2018, cùng với việc hình thành và phát triển các trung tâm y tế chuyên sâu, ngành Y tế khánh thành đưa vào sử dụng, khởi công nhiều công trình y tế hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân. Lần đầu tiên việc lập hồ sơ sức khỏe cá nhân gắn với bảo hiểm y tế toàn dân và chăm sóc sức khỏe toàn dân được thực hiện với hơn 11.400 trạm y tế cấp xã, trong đó 78% số trạm có bác sĩ làm việc.
    Bên cạnh đó, mô hình bệnh viện vệ tinh đã giúp giảm tỷ lệ chuyển tuyến, đạt từ 65 - 100% số ca chuyển tuyến ở những chuyên khoa thực hiện chuyển giao kỹ thuật tại các bệnh viện vệ tinh.
    Thống kê cho thấy, hiện đã xây dựng và hình thành 23 bệnh viện hạt nhân và 127 bệnh viện vệ tinh. 10 chuyên khoa được đầu tư và ưu tiên phát triển là ung bướu, ngoại chấn thương, tim mạch, sản, nhi, nội tiết, thần kinh, huyết học lâm sàng, hồi sức cấp cứu, chống độc.
    “Có thể nói, những kết quả của đề án bệnh viện vệ tinh đã từng bước giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện, đặc biệt là tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh”, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh.
    Năm 2018, ngoài các lĩnh vực trên, ngành Dược cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh sản xuất thuốc, vắc xin sản xuất trong nước.
    Thực hiện các nghị quyết Trung ương về y tế, hệ thống chính sách, pháp luật y tế ngày càng được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp; nhân lực tăng nhanh; chất lượng dịch vụ được nâng lên; ngăn chặn kịp thời các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch lớn; tài chính y tế có nhiều đổi mới đột phá; bao phủ bảo hiểm y tế được mở rộng. 
    Trao đổi với báo chí, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, bước vào năm 2019, ngành Y tế tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và triển khai các đề án, chính sách vĩ mô theo chương trình hành động của Chính phủ và của Bộ Y tế, thực hiện Nghị quyết số 19, 20-NQ/TW Khóa XII về công tác y tế, dân số và Quyết định 2348 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó quy hoạch lại mạng lưới cơ sở y tế, sắp xếp các đơn vị y tế công lập theo hướng tinh gọn đầu mối, hiệu lực, hiệu quả, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính phù hợp; quyết tâm hoàn thiện mô hình trạm y tế xã hoạt động theo nguyên lý y học gia đình, lấy người dân làm trung tâm, tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án ODA đã được cam kết và dự án đang trong giai đoạn hoàn thiện thủ tục ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ.
    Phương Anh

    Năm 2018, Du lịch Việt Nam đạt nhiều thành tựu

    11/02/2019 | 08:49
    Năm 2018, ngành du lịch đã đón 15,6 triệu khách quốc tế, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt 620 nghìn tỷ đồng . Du lịch Việt Nam tiếp tục phát triển vượt bậc và hứa hẹn sẽ bứt phá, gặt hái nhiều thành tựu trong năm 2019.
    Thành tựu và tiềm lực
    Du lịch Việt Nam 2018 có nhiều nền tảng để phát triển mạnh mẽ. Năm 2018 là năm thứ hai triển khai hiện thực hóa những chính sách mạnh mẽ của Nghị quyết TW8 xác định Du lịch là nền kinh tế mũi nhọn. Năm 2018, Luật Du lịch 2017 bắt đầu có hiệu lực. Với một hành lang thông thoáng, Luật Du lịch đã mở ra cơ hội thuận lợi và có nhiều bứt phá đối với ngành du lịch Việt Nam.
    Năm 2018, Du lịch Việt Nam đạt nhiều thành tựu - Ảnh 1.
    Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam và Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Ngọc Thiện trao giải thưởng cho các doanh nghiệp du lịch tiêu biểu. Ảnh: Thế Công
    Ngoài việc không ngừng nâng cao lượng khách quốc tế đến Việt Nam, năm 2018, nhiều nhiệm vụ quan trọng đã được ngành Du lịch thực hiện thành công như triển khai các giải pháp duy trì tốc độ tăng trưởng khách du lịch, Triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, báo cáo Bộ trình Thủ tướng Chính phủ các đề án: Cơ cấu lại ngành Du lịch; Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch; Ứng dụng tổng thể công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; Nâng cao hiệu quả trong quảng bá, xúc tiến du lịch...
    Chúng ta chứng kiến một năm du lịch với rất nhiều dự án có quy mô lớn, nghỉ dưỡng chất lượng cao được đưa vào sử dụng. Điều này làm tăng thêm nội lực của điểm đến trong khả năng tiếp nhận, phục vụ khách du lịch quốc tế cũng như khách du lịch nội địa và sự phát triển của các doanh nghiệp cùng các địa bàn động lực đã thực sự tạo ra tác động lan tỏa, định vị được hình ảnh điểm đến chung cho du lịch Việt Nam.
    Theo các nhà nghiên cứu, các yếu tố giúp tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ cho du lịch trong năm vừa qua chính là nhờ sự nỗ lực không mệt mỏi của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và doanh nghiệp du lịch. Các cơ quan quản lý nhà nước dù rất khó khăn nhưng cũng cố gắng xây dựng hệ thống chính sách hỗ trợ, thúc đẩy du lịch phát triển. Trong khi đó, các doanh nghiệp du lịch đã thực sự trưởng thành. Chúng ta đã có một đội ngũ doanh nghiệp mạnh mẽ, đó là những nhà đầu tư chiến lược, xây dựng các khu du lịch mang đẳng cấp quốc tế và các thương hiệu du lịch có thể sánh vai và đủ sức cạnh tranh với các thương hiệu du lịch trong khu vực. Chính sự nỗ lực này đã tạo ra sự tăng trưởng ổn định của lượng khách trong năm vừa qua.
    Ngoài ra, trong việc tăng trưởng khách không thể không nói đến công tác xúc tiến du lịch. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã thực hiện công tác này một cách bền bỉ và cho đến bây giờ kết quả của những xúc tiến đó mới có thể nhìn thấy nhiều hiệu quả rõ rệt.
    Cuối cùng là những thuận lợi về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Việt Nam nổi bật và thu hút khách không chỉ bởi những vẻ đẹp thiên nhiên, con người thân thiện mà chính còn bởi nền chính trị ổn định, an ninh đảm bảo. Đây là những điều kiện để chúng ta có thể thu hút khách và tạo động lực để ngành du lịch phát triển.
    Năm 2018, Du lịch Việt Nam đạt nhiều thành tựu - Ảnh 2.
    Ông Ngô Hoài Chung - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch. Ảnh Tổng cục Du lịch.
    Ông Ngô Hoài Chung - Phó tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam cho rằng, những lý do để lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm qua ổn định là do Việt Nam sở hữu đa dạng các kỳ quan thiên nhiên, các giá trị văn hóa, lịch sử, ẩm thực đặc sắc, hấp dẫn, các bãi biển đẹp hoang sơ, các khu nghỉ dưỡng hàng đầu thế giới, các thành phố trẻ vừa hiện đại, sôi động, vừa cổ kính. Nhiều điểm đến và sản phẩm du lịch của Việt Nam đã được xếp hạng hàng đầu thế giới bởi các hãng truyền thông lớn như CNN, BBC… hay các chuyên trang và mạng tư vấn, đánh giá về điểm đến du lịch có uy tín như TripAdvisor, Telegraph…
    Khắc phục khó khăn, vươn lên đạt nhiều thành tựu mới
    Bên cạnh những kết quả đáng tự hào thì trong thời gian qua, du lịch là một ngành kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn. Chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, ngành Du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực. Thu hút được 17 - 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 triệu lượt khách du lịch nội địa; đóng góp trên 10% GDP, tổng thu từ khách du lịch đạt 35 tỉ USD; giá trị xuất khẩu thông qua du lịch đạt 20 tỉ USD; tạo ra 4 triệu việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp. Năm 2030, tổng thu từ khách du lịch tăng gấp 2 lần năm 2020.
    Năm 2018, Du lịch Việt Nam đạt nhiều thành tựu - Ảnh 3.
    Hình minh họa. Ảnh: Nam Nguyễn
    Để đạt được mục tiêu trên, kế thừa những thành tựu đã đạt được của năm 2018, năm 2019, ngành Du lịch phải khắc phục những khó khăn hạn chế.
    Đầu tiên đó chính là sự phối hợp liên ngành còn một số khó khăn. Có thể nói, du lịch là một ngành kinh tế liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Tự du lịch không thể giải quyết các vấn đề như xuất nhập cảnh, phương tiện vận chuyển… Chính vì thế, muốn phát triển du lịch phải có sự phối hợp chung để tạo nên sự bứt phá.
    Bên cạnh đó, chính sách visa, quảng bá xúc tiến, duy trì chất lượng dịch vụ mang tính chuyên nghiệp trong ngành hàng không, cũng như khả năng kết nối những đường bay trực tiếp từ Việt Nam tới các thị trường trọng điểm của chúng ta vẫn còn một số hạn chế…
    Cùng với đó, những tồn tại về nguồn nhân lực của ngành cũng cần được tháo gỡ. Thực tế, nhân lực ngành du lịch đã có phát triển rõ rệt trong vài năm trở lại đây, nhưng về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển. Trong khi chúng ta phát triển nhiều cơ sở vật chất đặc biệt là các khu nghỉ dưỡng chất lượng cao, khách sạn 4-5 sao, các khu vui chơi giải trí thì còn thiếu người quản lý chuyên nghiệp.
    Cuối cùng, chúng ta còn thiếu những sản phẩm du lịch đa dạng và độc đáo. Phần lớn các sản phẩm du lịch hiện nay đều do tự doanh nghiệp làm mang tính tự phát nên còn trùng lặp, thiếu sự sáng tạo. Nếu muốn chuyên nghiệp và tạo ra hiệu quả thực sự thì chúng ta phải có một trung tâm nghiên cứu đầu tư và phát triển sản phẩm sau đó mới đề xuất cho các doanh nghiệp khai thác.
    Khắc phục những hạn chế đã chỉ ra, trong những năm tới, ngành du lịch phải có những chuyển biến mạnh mẽ từ Trung ương đến địa phương thì mới tạo ra sự bứt phá và đạt được mục tiêu mà Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã đề ra.

    Hạ Vân

    Tự hào với những người Việt khởi nghiệp thành công ở xứ người

    10/02/2019 08:12

    Những nhà khoa học, doanh nhân Việt kiều đã mang kiến thức và kỹ thuật được đào tạo từ nước ngoài về để nắm bắt những cơ hội mới trên quê hương.

    Được đón Nhật Hoàng Akihito (bên phải) đến thăm là một vinh dự lớn đối với ông Trần Ngọc Phúc (bên trái)
    Được đón Nhật Hoàng Akihito (bên phải) đến thăm là một vinh dự lớn đối với ông Trần Ngọc Phúc (bên trái)



















    Từ lâu, người Việt đã có cách nghĩ, kiểu làm mở cửa, giao thương với thế giới. Bước chân người Việt trên đường giao thương đã ghi dấu với phẩm chất cần cù, sáng tạo, dám đón nhận thời cơ, biết tạo dựng cơ hội. Quan trọng hơn, ở đâu, làm gì, người Việt vẫn đồng nhất một tinh thần vươn lên, ý chí không dừng bước, không chỉ để kinh doanh làm giàu, mà còn để khẳng định là người Việt đã đạt được những thành công đáng nể trên thương trường.
    Andre Đặng Văn Nha, một tỷ phú gốc Việt, một nhà kinh doanh giàu có bậc nhất và có tầm ảnh hưởng tại New Caledonia. Xuất thân là con của những người lao động Việt Nam từng làm trong mỏ của người Pháp, Andre Dang đã vươn lên trở thành ông chủ mỏ nickel vô vùng nổi tiếng và giàu có. Người dân sở tại gọi ông là "Bí ẩn Đặng".
    Andre Đặng Văn Nha khác thường ở sức chịu đựng phi thường. Ông không bao giờ chùn bước trước khó khăn, đã luôn chủ động tìm cách tạo ra những cơ hội kinh doanh từ những gì mà người khác không nhìn thấy và đón những luồng gió mới tiến về phía trước.
    Còn với với doanh nhân Trần Ngọc Phúc, sự khác biệt lại đến từ một phát minh mang tính bước ngoặt trong việc chăm sóc trẻ sinh non tại Nhật Bản. Cách đây hơn 40 năm, các bé siêu sinh non nặng từ 500gr tới dưới 1kg gần như không có cơ hội sống. Ông Phúc đã làm được điều mà người Nhật chưa bao giờ làm là chế tạo máy hô hấp nhân tạo cho trẻ sơ sinh, góp phần cứu sống hàng chục nghìn trẻ sinh non.
    Trong khi nhiều robot được chế tạo để phục vụ sản xuất, một người Việt trẻ thành công tại thung lũng silicon đã cùng nhóm bạn của mình chế tạo ra một loại robot rất độc đáo và hữu ích để phục vụ cuộc sống con người - Robot Ohmni. Được định vị là một robot gia đình, Robot Ohmni có thể làm nên những điều kỳ diệu là nói chuyện với bà già, biểu diễn tại London Fashion Week, giúp các em nhỏ bị ốm ở Australia trở lại trường học.
    Hải Anh (VTV)

    Kiên định mục tiêu về một Việt Nam tự cường

    "Chúng ta không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn ý thức rất rõ yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng, chú trọng phát triển bền vững"...


    Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
    08/02/2019 17:56
    Lần đầu tiên, tư duy nhiệm kỳ được trút bỏ khi cả guồng máy hối hả chạy trên chặng đua hướng tới 100 năm Ngày thành lập nước (2/9/2045). Năm 2019, bắt đầu với một khí thế như vậy 26 năm phía trước, bỗng chốc như đã là ngày mai, không còn thời gian nếu còn chậm trễ...
    Khi chèo chống đưa nền kinh tế trong 3 năm qua liên tiếp đạt được những kỳ tích, với kết quả tăng trưởng tốt hơn mọi dự báo, thì Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vẫn thường thấy rằng, "Một đất nước có thu nhập bình quân đầu người còn thấp như chúng ta thì có gì quá phấn khởi, mà còn là nỗi buồn bực của người làm lãnh đạo. Phải phát triển kinh tế tốt hơn nữa để cải thiện hơn nữa thu nhập cho người dân".
    Vào thời khắc khởi động cho chặng đua hướng tới 100 năm ngày thành lập nước, người đứng đầu Chính phủ nhìn lại gần 75 năm sau ngày độc lập, gần 45 năm sau thống nhất và hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và ghi nhận như một hình mẫu của nền kinh tế chuyển đổi có nhiều thành công trong phát triển và giảm nghèo. 
    Ông dẫn lại một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới (WB) có tên "Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung ở Việt Nam" ghi nhận trong ba thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng chục triệu người.
    Theo Thủ tướng, mặc dù có những giai đoạn thăng trầm như bất kỳ quốc gia nào khác, song về tổng thể, so với mặt bằng chung của thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong ba thập niên kể từ khi đổi mới là rất ấn tượng. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1986- 2017 đạt 6,63%/năm. 20 năm gần nhất tăng bình quân 6,3%/năm, 10 năm gần nhất tăng 6%/năm, riêng năm 2017 tăng 6,81%, năm 2018 tăng 7,08%. Việt Nam đã chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình, tỷ lệ nghèo giảm từ mức trên 60% xuống còn khoảng 7%, và quy mô nền kinh tế hiện đứng thứ 44 thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 34 khi tính theo sức mua tương đương quốc tế.
    Quy mô nền kinh tế tăng gấp hơn 17,4 lần, từ 14 tỷ USD năm 1985 lên ước đạt 244 tỷ USD năm 2018. Thu nhập bình quân đầu người năm 1985 chỉ đạt 230 USD nay đã tăng lên gần 2.540 USD (tính theo sức mua tương đương là gần 7.640 USD). Khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam và các nước đã thu hẹp đáng kể. Nếu như vào đầu thập niên 90, thu nhập đầu người của Singapore cao hơn 125 lần so với Việt Nam, thì nay chỉ còn 24 lần; Thái Lan từ gấp 16 lần Việt Nam nay chỉ còn 2,5 lần; Nhật Bản từ 267 lần thì nay còn khoảng 16 lần; Hoa Kỳ từ 252 lần xuống còn 25 lần; các nước OECD từ 184 lần xuống còn 16 lần...
    "Chúng ta không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn ý thức rất rõ yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng, chú trọng phát triển bền vững", Thủ tướng khẳng định, "Thực hiện nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo các quyền con người, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống văn hóa - tinh thần, cải thiện phúc lợi, tạo cơ hội học hành, tiếp cận y tế cho nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; thực hiện chính sách phát triển tam nông; đảm bảo an ninh, an toàn cho người dân trong các hoạt động của đời sống kinh tế và xã hội; củng cố năng lực quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, sẵn sàng ứng phó và không để bị bất ngờ trong mọi tình huống hay trước bất kỳ các thách thức và mối đe dọa nào có thể xảy đến".
    Để bảo vệ các thành quả đã có và đạt được trọn vẹn những mục tiêu phát triển mà người đứng đầu Chính phủ trăn trở, "Đây là cả một chặng đường đầy khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng đổi mới, cải cách, luôn kiên định với lý tưởng, phải nỗ lực, quyết tâm trong nhiều giai đoạn, không chỉ trong nhiệm kỳ này mà cả những nhiệm kỳ kế tiếp". Ông có niềm tin rằng, "Chắc chắn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, chúng ta sẽ tận dụng tốt các cơ hội, luôn chung sức, đồng lòng, kiên định niềm tin vào lý tưởng và mục tiêu về một nước Việt Nam độc lập, tự cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
    Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ
    Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 nêu rõ, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ lâm thời khi quyết định đặt tên nhà nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời cũng xác định mục tiêu là ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC.
    Độc lập, tự do, hạnh phúc là vấn đề chiến lược lâu dài và là sự thống nhất trong bản chất của nhà nước cách mạng. Bản chất của nhà nước cách mạng là nhà nước không phải là tổ chức để cai trị dân mà là cơ quan để phục vụ nhân dân, cán bộ của Nhà nước là công bộc của dân.
    Hai lần tới dự và phát biểu chỉ đạo tại hội nghị Chính phủ và địa phương, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đều bày tỏ trăn trở về việc phải làm tốt hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí những cán bộ thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết, thật sự vì nước, vì dân vào các vị trí lãnh đạo của bộ máy nhà nước. 
    Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những người tham nhũng, hư hỏng; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, ưu ái tuyển dụng người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hoá, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Chính phủ, chính quyền các cấp thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
    Còn Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhìn nhận, "Hành trình của dân tộc ta còn rất dài, với rất nhiều thách thức phía trước và hơn thế nữa nội hàm giá trị cốt lõi và định hướng xuyên suốt của chúng ta trong mọi hành trình, chặng đường phát triển là không để một người dân nào bị bỏ lại phía sau, từ thành thị tới nông thôn, từ miền ngược đến miền xuôi, biên giới, hải đảo". 
    Ông cũng thấy là, "Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm của tất cả chúng ta trong việc giải quyết những vấn đề lớn của đất nước, từ công cuộc chống tham nhũng đến vấn đề bảo vệ môi trường, nông nghiệp, nông dân, nông thôn, miền núi, dân tộc... chưa bao giờ lớn và sâu sắc như lúc này. Đến những vùng khó khăn, xa xôi, chúng tôi thấy được ánh mắt, nụ cười của niềm tin của người dân, của người lãnh đạo và các loại hình doanh nghiệp".
    Chấm dứt thời kỳ "nghĩ ngắn, ăn đong"
    Chính phủ bắt đầu nhiệm kỳ mới vào năm 2016, với lần đầu tiên các kế hoạch về đầu tư công trung hạn, ngân sách nhà nước (NSNN) cho cả giai đoạn 5 năm được trình ra Quốc hội, chấm dứt thời kỳ "nghĩ ngắn, ăn đong", "làm đến đâu biết đến đó", chuyển sang thời kỳ, nói như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, "Nghĩ xa, nhìn tổng thể, hành động nhanh, làm việc lớn bắt đầu từ việc nhỏ".
    Khi có tầm nhìn xa hơn, như với kế hoạch đầu tư công trung hạn cho giai đoạn 2016- 2020, đã đưa kỷ luật, kỷ cương tài chính về đầu tư công đi vào nền nếp, mặc dù giải ngân còn khó khăn nhưng cũng thể hiện sự thận trọng hơn, chặt chẽ hơn trong quản lý đầu tư công. Hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền kinh tế nói chung và đầu tư công nói riêng đã được cải thiện một bước, bước đầu khắc phục được tình trạng quyết định chủ trương và quyết định đầu tư chưa phù hợp, thậm chí tùy tiện, không căn cứ vào khả năng cân đối vốn, giảm được nợ đọng xây dựng cơ bản, quản lý chặt chẽ vốn ứng trước và khắc phục được tình trạng phân bổ hàng năm. Cơ cấu chi ngân sách cho đầu tư phát triển có bước chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển từ ngân sách các năm 2016 - 2018 tăng lên mức 26 - 27%, vượt mục tiêu đặt ra là 25 - 26%.
    Cơ cấu đầu tư giữa các ngành, lĩnh vực được điều chỉnh phù hợp hơn. Hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội bước đầu tăng lên, hệ số ICOR giảm từ 6,36 của giai đoạn 2011 - 2014 xuống còn 6,11 trong giai đoạn 2015 - 2017. Xét trên tổng thể, việc phân vốn đầu tư công về cơ bản đã tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí, định mức và thực hiện theo từng thứ tự ưu tiên trong phân bổ vốn NSNN giai đoạn 2016 - 2020, góp phần khắc phục dần tình trạng không cân đối được nguồn vốn, bị động, đầu tư cắt khúc như trước đây.
    Với kế hoạch trung hạn cho ngân sách nhà nước, kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành NSNN cũng được siết chặt; hạn chế việc tùy tiện điều chỉnh dự toán, từng bước gắn kết giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng từng bước được chú trọng và tăng cường hơn. 
    Bước đầu tạo tính chủ động cho các bộ, ngành trong việc dự báo khả năng thu ngân sách và nhu cầu chi tiêu để thực hiện các nhiệm vụ của bộ, ngành được giao. Đặc biệt, khi thực hiện một tầm nhìn dài cho 5 năm, thì trong 3 năm qua ghi nhận sự diễn biến rất tích của bội chi. Bội chi năm 2016 là 5,12% GDP xuống còn 3,48% GDP của năm 2017, và 3,67% GDP của năm 2018, dự kiến năm 2019 là 3,6% GDP và 2020 là 3,4% GDP. 
    Mục tiêu bình quân 5 năm bội chi 3,9% GDP là trong tầm tay. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước có chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng chi thường xuyên, tăng tỷ trọng chi đầu tư trong tổng chi ngân sách nhà nước. Năm 2019, xác định tỷ trọng chi thường xuyên là 63,8%, thấp hơn năm 2018 là 64,1%, tỷ trọng chi đầu tư phát triển là 26,3%, cao hơn năm 2018 (26,2%) bảo đảm mục tiêu cơ cấu chi đầu tư - chi thường xuyên theo Nghị quyết của Quốc hội.

    Những thành tựu khoa học đáng kinh ngạc, tự hào của Việt Nam

    LĐO | 

    Khẳng định vai trò, uy tín, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới năm 2018

    17:44 04.02.2019
    Năm 2018 một lần nữa khẳng định vai trò, uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực ASEAN và trên thế giới ngày càng được nâng cao, thể hiện sự chủ động và “tầm vóc” của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, tham gia kiến tạo và định hình kinh tế khu vực và toàn cầu, bài viết trên báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.
    Trong bối cảnh quan hệ quốc tế năm 2018 bị tác động mạnh bởi điều chỉnh chính sách các nước lớn, kéo theo những diễn biến nhiều chiều ở các khu vực, tác động không nhỏ tới tình hình mỗi nước, trong đó có Việt Nam, công tác đối ngoại năm 2018 tiếp tục đạt nhiều thành tựu. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước và các đối tác đều được mở rộng và sâu sắc hơn. Đặc biệt, đối ngoại 2018 đã khắc họa vai trò nổi bật của Việt Nam đối với sự kiện mang tầm vóc "toàn cầu".
    Trẻ mầm non trường Hoa Sen, thành phố Vinh thích thú với ngày hội Ngày Tết quê em.
    © ẢNH : BÍCH HUỆ - TTXVN
    Năm 2018, tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy, đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào các vấn đề quốc tế, đối ngoại đã tạo môi trường thuận lợi để kinh tế đất nước phát triển.
    Năm 2018, chúng ta cũng ghi nhận các chuyến thăm song phương "nhộn nhịp", suốt từ đầu năm đến cuối năm. Nhờ các chuyến thăm này, Việt Nam đã xây dựng được trọng tâm cơ chế, cũng như khuôn khổ hợp tác thuận lợi trên từng lĩnh vực để phát triển kinh tế đất nước. Đáng chú ý, trong năm, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ với Australia từ Đối tác toàn diện tăng cường lên Đối tác chiến lược, đưa tổng số quan hệ Đối tác chiến lược lên 16. Ngoài ra, mối quan hệ Đối tác toàn diện với 11 quốc gia và quan hệ Đối tác chiến lược đặc biệt với Lào và Campuchia không ngừng được củng cố.
    Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga
    Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga
    Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga, Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia Việt Nam về Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương, Phó Chủ tịch nhóm xây dựng Tầm nhìn APEC sau 2020, khẳng định: Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển then chốt. Chúng ta có sự đan xen lợi ích rộng lớn chưa từng có với các đối tác, 27 đối tác chiến lược và toàn diện cùng 59 đối tác FTA. Chúng ta chủ trương hội nhập rất sâu và hiện nay chúng ta không chỉ ở tầm mức hội nhập mà ở tầm mức liên kết với một vị thế mới, bắt kịp với xu thế mới.
    Không chỉ các chuyến thăm cấp cao, hàng trăm các cuộc tiếp xúc, trao đổi ở các cấp, các bộ, ngành, các cơ chế hợp tác, các hoạt động kỷ niệm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao đã giúp quan hệ Việt Nam với các nước ngày càng hiệu quả và đi vào chiều sâu, thúc đẩy nhận thức chung về một trật tự thế giới đa cực.
    Mặc dù, xu hướng bảo hộ nổi lên ở nhiều nơi trên thế giới, kim ngạch thương mại và thu hút vốn đầu tư, du lịch từ các đối tác chủ chốt của Việt Nam vẫn trên đà tăng. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt mức kỷ lục 15 triệu lượt người. Đến nay, đã có tổng cộng 71 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Năm 2018 còn ghi dấu với việc Việt Nam hoàn tất ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu (EVFTA), nâng tổng số Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia lên 16. Với các Hiệp định tự do thương mại này, Việt Nam thể hiện sự chủ động tham gia và góp phần hình thành hệ thống thương mại quốc tế. Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam được tín nhiệm bầu vào thành viên Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2019-2025 với số phiếu rất cao.
    Năm 2018 cũng đánh dấu những kết quả đáng ghi nhận trong ngoại giao đa phương của Việt Nam. Ngoài việc lần đầu tiên trúng cử vào Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, Bệnh viện dã chiến đầu tiên của Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, Việt Nam còn góp mặt trong nhiều diễn đàn đa phương (như Hội nghị G7 mở rộng, Hội nghị cấp cao ASEAN, chủ trì soạn thảo Nghị quyết về biến đổi khí hậu và quyền con người tại khóa họp Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Hội nghị cấp cao hợp tác Mekong Nhật Bản, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn cấp cao vì mục tiêu xanh toàn cầu, Kỳ họp đại hội đồng Liên hợp quốc).
    Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch WEF Borge Brende tại buổi đối thoại.
    © ẢNH : THỐNG NHẤT – TTXVN
    Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch WEF Borge Brende tại buổi đối thoại.
     
    Đặc biệt, Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018 (WEF-ASEAN) với chủ đề "ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" do Việt Nam đăng cai tổ chức tại Hà Nội để lại dấu ấn sâu đậm về một Việt Nam hội nhập. Chủ tịch WEF ông Borge Brende cho rằng: Trong 27 năm tổ chức diễn đàn WEF khu vực ASEAN và Đông Á, đây là diễn đàn thành công nhất. Việt Nam đã đi qua một chặng đường phát triển ấn tượng từ Hội nghị Đông Á tại Việt Nam năm 2010 và Hội nghị lần này thu hút sự tham dự đông đảo của lãnh đạo các nước Đông Nam Á và khu vực, doanh nghiệp hàng đầu. Chúng tôi rất hài lòng khi làm việc với các đối tác Việt Nam và đánh giá cao vai trò của Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị lần này.
    Có thể nói, sự thành công của WEF ASEAN 2018 một lần nữa khẳng định vai trò, uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực ASEAN và trên thế giới ngày càng được nâng cao, thể hiện sự chủ động và "tầm vóc" của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, tham gia kiến tạo và định hình kinh tế khu vực và toàn cầu.
    Năm 2019, thế giới và khu vực tiếp tục còn nhiều diễn biến mới. Trong một thế giới nhiều thay đổi, Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách độc lập, tự chủ, ngoại giao hòa hiếu, tiếp tục duy trì quan hệ rộng mở với tất cả các nước và đóng góp vào các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế.