Monday, November 3, 2014

Báo Đức đánh giá cao thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam

(Thời sự) - Theo phóng viên TTXVN tại Berlin, một số báo của Đức vừa có tin, bài đánh giá cao thành tựu cũng như triển vọng phát triển kinh tế của Việt Nam, đồng thời ca ngợi vai trò tích cực của Việt Nam trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Báo “Düsseldorf Buổi tối” (Düsseldorfer Abendblatt) và cổng thông tin điện tử pressportal.de cho biết từ khi áp dụng chính sách “Đổi mới“ để mở cửa và hướng tới nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam đã có giai đoạn tăng trưởng nhanh với tỷ lệ 7-8% mỗi năm.

Chuỗi tăng trưởng ấn tượng này bị gián đoạn bởi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008/2009, song kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi.
Báo Đức ca ngợi kinh tế Việt Nam.
Trong ba năm qua, Chính phủ Việt Nam đã áp dụng thành công chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và đã đạt được nhiều thành quả đáng chú ý như tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức tương đối cao và ổn định từ 5 – 6% năm, GDP năm 2013 đạt 176 tỷ USD, tương đương với thu nhập bình quân đầu người 1.960 USD.
Đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2013 đạt 23 tỷ USD, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ lạm phát dần ổn định, giảm từ trên 20% những năm 2010/2011 xuống còn 6% năm 2013.
Trong khi đó, cán cân thương mại Việt Nam tiếp tục đạt thặng dư với kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt 132,2 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 131,3 tỷ USD.
Trên phương diện thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, bài báo nêu rõ để thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút thêm đầu tư nước ngoài, cũng như giảm phụ thuộc vào các đối tác truyền thống nhưng rủi ro, khó lường, Việt Nam đã thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới, như gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ năm 2007.
Việc gia nhập WTO được cho là một tín hiệu chính trị, khởi động cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là thành viên của các tổ chức, thể chế kinh tế quốc tế, trong đó có Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA).
Cũng theo bài báo, Việt Nam cũng đóng vai trò tích cực trong cộng đồng các nước ASEAN, khu vực có dân số 560 triệu người với GDP vào khoảng 800 tỷ USD.
Việt Nam cùng các nước ASEAN khác đã nhất trí thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực, thành lập một “Cộng đồng kinh tế ASEAN” với mục tiêu một thị trường chung năm 2015.
Ngoài ra, Việt Nam hiện đang đàm phán hiệp định thương mại tự do với EU (EVFTA) với khả năng kết thúc dự kiến vào cuối năm 2014 hoặc đầu năm 2015.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đàm phán với Mỹ và một số nước về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quá trình đàm phán đang diễn ra tích cực và nhiều khả năng sẽ kết thúc trong thời gian tới.
Trong khi đó, báo “Tiêu điểm” (der Focus), một trong những báo lớn nhất của Đức, cũng có bài viết đánh giá những triển vọng tích cực của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2014.
Theo bài viết, các chỉ số kinh tế chín tháng năm 2014 cho thấy triển vọng tích cực của kinh tế Việt Nam trong năm nay và những năm tới.
Đến tháng Chín, GDP tăng 5,62% so với cùng kỳ năm ngoài, tăng trưởng GDP cho cả năm 2014 dự báo là 5,8%.
Tỷ lệ lạm phát chín tháng năm 2014 chỉ ở mức 2,25%, thấp nhất trong 12 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu chín tháng năm 2014 đạt 109,63 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cán cân thương mại dự kiến tiếp tục thặng dư trong năm 2014 với kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 148 tỷ USD (tăng 12,1%) và kim ngạch nhập khẩu đạt 146,5 tỷ USD (tăng 11%).
Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản đang có những dấu hiệu từng bước phục hồi.
Thị trường chứng khoán Việt Nam nằm trong số năm thị trường có mức tăng trưởng mạnh nhất trên thế giới thời gian qua. Giao dịch bất động sản cũng tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư.
Nhờ chính sách kinh tế linh hoạt cũng như ổn định chính trị, Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu về mức độ hấp dẫn đầu tư trong khối ASEAN.
Trong những năm qua, FDI và vốn viện trợ phát triển (ODA) vẫn tiếp tục tăng đều.
Bài viết cũng cho rằng kinh tế Việt Nam vẫn còn một số vấn đề cần giải quyết như nợ công tăng mạnh trong những năm qua và vấn đề nợ xấu của hệ thống tài chính – ngân hàng./.
(Theo Vietnam+)

Nhân dân cả nước đánh giá cao trách nhiệm của Bộ GTVT

Triển khai nhanh việc cổ phần hóa DN nhà nước, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, giảm tai nạn và ùn tắc giao thông, tổ chức thi tuyển công khai các chức danh... là những nét nổi bật trong lĩnh vực giao thông vận tải được cử tri đánh giá cao, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân cho biết khi khi trình bày báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân tại kỳ họp thứ 8, QH khóa XIII.
Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước 
Theo báo cáo, trong lĩnh vực GTVT, cử tri và nhân dân đánh giá cao ý thức trách nhiệm và những cố gắng của Bộ Giao thông vận tải thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, triển khai nhanh việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bước đầu sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển và khai thác kết cấu hạ tầng giao thông, giảm tai nạn và ùn tắc giao thông, tổ chức thi tuyển công khai các chức danh lãnh đạo cấp trưởng thuộc Bộ quản lý.
Tuy nhiên, hạ tầng giao thông đường bộ ở nhiều nơi vẫn đang xuống cấp do xe quá tải, quá khổ hoạt động và do thiếu vốn để cải tạo, sửa chữa, duy tu. Việc kiểm soát tải trọng xe đã được triển khai quyết liệt nhưng vẫn còn tình trạng nhiều xe tải trọng lớn cố tình hoạt động gây hư hỏng đường. Vẫn còn những vụ tai nạn giao thông đường bộ nghiêm trọng, nhất là xe khách đường dài, với số người thương vong lớn mà nguyên nhân chủ yếu là vi phạm pháp luật của các cơ sở kinh doanh dịch vụ vận tải và người điều khiển phương tiện.
Cử tri và nhân dân đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ GTVT, Bộ Công an, các ngành hữu quan và chính quyền các địa phương cần tiếp tục thực hiện các giải pháp quyết liệt, cụ thể, thường xuyên nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật gây mất trật tự, an toàn giao thông; xử lý nghiêm cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nhưng có tiêu cực, dung túng, bao che cho các đối tượng vi phạm; siết chặt hơn nữa công tác quản lý kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; đồng thời tiếp tục kiên quyết xử lý nghiêm những đơn vị xây dựng, thi công không bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình giao thông.
Báo cáo cáo của Trung ương Mặt trận Tổ quốc VN nêu rõ: Cử tri và nhân dân tiếp tục quan tâm đến tình hình Biển Đông và mong muốn các cơ quan chức năng của nhà nước thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng, kịp thời hơn nữa để người dân hiểu đầy đủ về tình hình, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần đoàn kết, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Cử tri và nhân dân mong muốn Nhà nước có chính sách ưu đãi hơn nữa đối với ngư dân, đồng thời tăng cường các biện pháp đấu tranh kiên quyết, ngăn chặn không để các tàu của nước ngoài đe dọa, thu giữ trái phép ngư cụ, đập phá thiết bị hành nghề của ngư dân hoạt động đánh bắt hải sản trong ngư trường truyền thống của Việt Nam, gây hoang mang cho ngư dân thời gian qua.
Cử tri và nhân dân còn nhiều băn khoăn, lo lắng về nền kinh tế phát triển chưa bền vững, sức mua tăng chậm, việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu, chất lượng tăng trưởng và năng suất lao động thấp, tái cơ cấu kinh tế, cải cách thể chế còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo còn cao ở nhiều tỉnh miền núi, thất nghiệp, dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, tham nhũng, lãng phí.
Cùng với những kiến nghị nêu trên, cử tri và nhân dân kiến nghị Quốc hội, Chính phủ tiếp tục giải quyết theo thẩm quyền và chỉ đạo các bộ, ngành hữu quan giải quyết và có báo cáo rõ hơn về kết quả việc giải quyết những kiến nghị của cử tri và nhân dân đã được nêu tại các kỳ họp trước của Quốc hội, như: Về tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là vào mùa mưa, lũ, bão; về giải quyết tình trạng ngập nước ở các thành phố lớn, trong đó có Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ khi có triều cường, thành phố Hà Nội khi có mưa lớn; về kiểm soát chặt hơn nữa tình trạng khai thác và xuất khẩu thô khoáng sản ở một số địa phương; về tình trạng khai thác cát, sỏi trái phép gây hậu quả nghiêm trọng ở nhiều nơi; về tình trạng khiếu nại tố cáo vẫn diễn ra phức tạp, về nợ công tăng nhanh và về cải cách hành chính...
Bình Minh

UNESCO đánh giá cao nỗ lực quản lý bảo tồn di sản Vịnh Hạ Long

Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam khẳng định, vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long cho thấy câu chuyện thành công bảo tồn và quảng bá di sản thiên nhiên này.
Năm 1994 Vịnh Hạ Long chính thức trở thành Di sản thiên nhiên thế giới đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận. Vào ngày 1/11 tới đây, lễ kỷ niệm 20 năm Vịnh Hạ Long được vinh danh sẽ được UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức long trọng với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Dù còn nhiều việc cần làm để tiếp tục bảo tồn và phát huy giá trị, song thời gian qua, những nỗ lực to lớn của Ban quản lý Vịnh Hạ Long nhằm giải quyết một cách toàn diện các vấn đề về bảo tồn mà Ủy ban Di sản thế giới (UBDSTG) của UNESCO khuyến nghị nêu ra trước đó đã được khen ngợi và đánh giá cao.
Vịnh Hạ Long. Ảnh: National Geographic
Nỗ lực thoát diện khuyến nghị bảo tồn
Những năm gần đây, từ kỳ họp thứ 33 (năm 2009) của UBDSTG, Vịnh Hạ Long luôn được khuyến nghị về công tác quản lý, bảo tồn xung quanh các vấn đề tác động của du lịch, xây dựng, nuôi trồng thủy sản, môi trường, đe dọa đến các giá trị nổi bật toàn cầu của di sản.
Ngày mai (1.11), Vịnh Hạ Long tròn 20 năm được UNESCO vinh danh là di sản thiên nhiên thế giới
Cụ thể, những khuyến nghị lần đầu đối với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long đã được UBDSTG đặt ra tại Quyết định số 33 COM 7B.20 năm 2009 với nội dung yêu cầu Việt Nam giải trình về công tác bảo tồn vịnh Hạ Long gồm kế hoạch sử dụng bền vững Trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn; đánh giá công tác quản lý di sản từ những áp lực phát triển du lịch, đô thị và công nghiệp, hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản.
“UBDSTG thể hiện quan ngại sâu sắc rằng những giá trị nổi bật toàn cầu của di sản này vẫn phải chịu sức ép của du lịch, đánh bắt cá và các hoạt động khác diễn ra ngay trong lòng di sản bên cạnh những dự án phát triển kinh tế và các hoạt động đổ rác thải trong khu vực xung quanh di sản”, trích quyết định số 33 COM 7B.20 của UBDSTG năm 2009.
Trên thực tế, tỉnh Quảng Ninh và các cơ quan liên quan đã và đang nỗ lực giải quyết vấn đề này. Bà Katherine Muller-Marine, Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam đánh giá các cơ quan quản lý đã đạt được những bước tiến đáng kể trong công tác bảo tồn Vịnh Hạ Long. Bà khẳng định: “Công tác bảo vệ kỳ quan thiên nhiên trong bối cảnh phát triển công nghiệp và đô thị ngày càng tăng thì việc duy trì quản lý du lịch bền vững, giảm thiểu những tác động của biến đổi khí hậu và xúc tiến mối quan hệ lành mạnh giữa các cộng đồng địa phương và môi trường thiên nhiên luôn được đánh giá cao”.
Bà Katherine Muller-Marine cho biết, các cơ quan quản lý Vịnh Hạ Long đã có những hành động nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động phát triển công nghiệp bên ngoài khu di sản như việc xây dựng đường bộ. Các vấn đề xã hội đi đôi với tăng trưởng nhanh dân cư làng nổi, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản không bền vững và số lượt khách du lịch gia tăng cũng đã được giải quyết.
Tháng 6 vừa qua, đoàn công tác của tỉnh Quảng Ninh do Phó chủ tịch tỉnh Vũ Thị Thu Thủy làm trưởng đoàn đã trực tiếp tham dự hội nghị thường niên (lần thứ 38) của UBDSTG tổ chức tại Doha, Qatar. Tại cuộc họp, UBDSTG đã ghi nhận công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản vịnh Hạ Long có nhiều chuyển biến tích cực. Quyết định của kỳ họp lần này hoan nghênh những tiến bộ trong việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết những thách thức đặt ra cho khu di sản này cũng như sự chỉ đạo và nỗ lực của tất cả các bên tham gia. Đồng thời, Ủy ban xác định các vấn đề quan trọng tạo cơ hội tiếp tục và tăng cường hơn nữa công tác bảo tồn.
Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam khẳng định: “Vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long không chỉ cho thấy câu chuyện thành công bảo tồn và quảng bá di sản thiên nhiên này trên khắp đất nước và thế giới, mà còn là một ví dụ hoàn hảo của hệ sinh thái độc đáo được gìn giữ ở Việt Nam”.
Phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản
Theo kế hoạch, vào tháng 2.2015, Việt Nam sẽ có báo cáo cuối cùng về tình hình bảo tồn vịnh Hạ Long. Bà Katherine Muller-Marine cũng đưa ra những khuyến nghị về hành động trong tương lai nhằm bảo tồn và phát huy tốt hơn di sản Vịnh Hạ Long.
Bà Katherine cho rằng, UBDSTG luôn khuyến khích tăng cường năng lực quản lý của Ban Quản lý (BQL) Vịnh Hạ Long cho phép cơ quan này có một mức độ tự chủ, thẩm quyền và quyền quyết định lớn hơn nhằm quản lý một cách hiệu quả và đẩy mạnh công tác bảo tồn Vịnh. Quyết định của UBDSTG cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục giảm sức ép về khách du lịch xuống một mức độ phù hợp  để bảo tồn lâu dài  cũng như tăng  đầu tư cho BQL và cộng đồng địa phương từ nguồn thu từ những khách du lịch này.
Điều thiết yếu là phải có sự tham gia của cộng đồng địa phương và họ phải được hưởng lợi. Khu vực tư nhân phải đóng một vai trò tích cực và có trách nhiệm, và phải đóng góp với nhận thức rằng cách duy nhất để phát triển liên tục là thông qua đầu tư dài hạn và đảm bảo rằng những gì mà khách du lịch gần xa đến để chiêm ngưỡng, luôn tồn tại ở đó để họ thưởng ngoạn trong hiện tại cũng như trong tương lai.
“Những làn nước trong suốt như pha lê, môi trường trong lành, các dịch vụ an toàn và hiệu quả hòa hợp với thiên nhiên, sự tôn trọng người dân địa phương, tôn trọng cây cối và động vật, tất cả đều được ghi vào danh mục những điều yêu thích của khách du lịch và sẽ trở thành những lý do để họ trở lại một, hai và nhiều lần nữa. Đầu tư vào việc thu hút một khách du lịch ở lại lâu hơn và trở lại cùng với gia đình và bạn bè là một sự đầu tư đáng giá. Lôi cuốn sự tham gia của khách du lịch và lắng nghe họ sẽ giúp thiết lập những quan hệ gần gũi hơn và cung cấp những dịch vụ tốt hơn”, bà Katherine nhấn mạnh.
Điều cuối cùng, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam cho rằng, chúng ta cần phải nâng cao giáo dục di sản trong trường học nhằm đảm bảo là các thế hệ mai sau luôn quý trọng và gìn giữ di sản kỳ vĩ này của Việt Nam và thế giới.
Theo Hà Phương (VOV)

Việt Nam tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người

QĐND - Có thể nói, trong thời kỳ đổi mới, quyền con người (QCN) từ ghi nhận đến tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn là những bước phát triển nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Cách đây 22 năm, vào năm 1992, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ban hành Hiến pháp 1992, theo đó, Điều 50, Chương V, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đã quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế văn hóa, xã hội được tôn trọng…”. Văn kiện Đại hội IX, năm 2001 đã xác định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia” (1).
Mười năm sau, Đại hội XI (năm 2011), trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011), QCN đã được khẳng định lại như là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội XI viết: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” (2). Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương riêng quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”, trong đó các nguyên tắc cơ bản về QCN cũng như các QCN cụ thể mà các công ước quốc tế về QCN đã quy định đều được “ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm”.
Thế nhưng, trong những ngày qua, sau sự kiện Nguyễn Văn Hải (tức Điếu Cày) được xuất cảnh đi Mỹ (ngày 21-10-2014) vì lý do nhân đạo (trước đó, tháng 4-2014, Cù Huy Hà Vũ cũng được xuất cảnh đi Mỹ để chữa bệnh), thiết tưởng đó cũng là điều bình thường, nhưng trên nhiều trang mạng, người ta đã có nhiều đồn đoán về quan hệ Mỹ-Việt. Đáng tiếc, có người còn cho rằng, cả Mỹ và Việt Nam đều “ra điều kiện” cho nhau theo kiểu: “Ông mất chân giò-bà thò chai rượu” trong việc mở rộng và phát triển hơn nữa mối quan hệ sẵn có giữa hai nước. Chẳng hạn, họ nói: Việt Nam đã “thay đổi chiến thuật”, rằng, sau khi Hoa Kỳ nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam trong chuyến đi Mỹ của ông Phạm Bình Minh “thì phía Việt Nam mới thả anh Điếu Cày ra”. Điều này nói lên rằng, Việt Nam đã rút được kinh nghiệm: Nếu đáp ứng đòi hỏi của phía Hoa Kỳ trước (về việc nới lỏng vấn đề nhân quyền) thì “điều họ nhận được đều không như ý”. Nói cách khác, theo họ, chỉ khi nào Việt Nam nhận được cam kết, thực hiện trước của Hoa Kỳ, thì Việt Nam mới nới lỏng vấn đề QCN!
Không phủ nhận rằng mối quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ không giống mối quan hệ giữa Việt Namvới các nước vốn có quan hệ hợp tác, hữu nghị từ trước. Hoa Kỳ và Việt Nam đã có những trang sử đau buồn, mà lỗi thuộc về phía gây chiến tranh xâm lược. Tuy nhiên cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều có chung quan điểm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, như các chính khách và nhà ngoại giao cả hai nước từng nói: “Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Chúng ta có thể thay đổi tương lai bằng cách hợp tác với nhau”, hoặc “Chúng ta không thể thay đổi quá khứ, chúng ta có thể cùng làm việc cho tương lai”…
Còn nhớ sau 20 năm gián đoạn kể từ khi kết thúc chiến tranh, Tổng thống Hoa Kỳ Bin Clin-tơn tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 11-7-1995; tháng 7-2000, hai bên đã ký kết Hiệp định thương mại song phương và tháng 11-2007, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam. Đặc biệt, trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (tháng 7-2013), nguyên thủ của hai nước: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma đã khẳng định mong muốn Việt Nam và Hoa Kỳ tăng cường hợp tác vì sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Cũng trong dịp này, hai nhà lãnh đạo đã quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Như chúng ta đều biết, mối quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ vốn bị chi phối bởi nhiều yếu tố, đó không chỉ là những vấn đề về lịch sử mà còn sự khác biệt về thể chế chính trị, lối sống, văn hóa, trong đó có sự khác biệt về quan điểm và pháp luật trên lĩnh vực QCN. Điều này cũng là bình thường, tương tự như hiện nay, trong khi Liên minh Châu Âu đã xóa bỏ án tử hình, còn Hoa Kỳ và cả Việt Nam thì chưa. Chính bởi có những sự khác biệt mà hai nước cần phải có một quá trình nhất định để chia sẻ quan điểm và giảm thiểu khoảng cách khác biệt. Việc Mỹ tuyên bố dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho ViệtNam là một bước đi tự nhiên trong lộ trình quan hệ giữa hai nước.
Thực tế cho thấy, đến nay hai bên đã bình thường hóa quan hệ được gần 20 năm, mà Hoa Kỳ vẫn cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam thì đó có thể nói là “chưa bình thường”; bởi vậy, xóa bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam mới là điều bình thường. Điều này cũng tương tự như quan hệ Việt-Mỹ đang có những tiến triển rất tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực như hợp tác kinh tế-thương mại, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, an ninh và môi trường.
Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền và bình đẳng với tất cả các quốc gia, không phân biệt lớn nhỏ, phát triển hay đang phát triển, có Hiến pháp, pháp luật của mình. Việc Việt Nam bắt giữ, điều tra, truy tố xét xử và thi hành án phạt tù người nào đó là căn cứ vào pháp luật Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa việc Việt Nam xem xét quá trình cải tạo, tình hình sức khỏe và cả những kiến nghị nào đó của nước ngoài để giảm nhẹ mức án hoặc trả tự do sớm cho người đang chấp hành án phạt tù cũng là điều bình thường, là không vi phạm các công ước quốc tế về QCN cũng như không vi phạm cam kết với các quốc gia khác, trong đó có Hoa Kỳ. Không được quên rằng, mối quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ không chỉ dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, mà còn dựa trên tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền của nhau. Trong thời gian tới, Việt Namsẽ tiếp tục thực hiện quan điểm tôn trọng và bảo đảm QCN ngày một tốt hơn, đầy đủ hơn. Đây là điều hoàn toàn tự nhiên.  
Kinh nghiệm của thế kỷ XX cho thấy, nguyên tắc cao nhất của sự hợp tác giữa các quốc gia chính là sự phù hợp, thích hợp lợi ích giữa các quốc gia. Quan hệ hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ không nằm ngoài nguyên tắc đó. Việc Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam không chỉ đem lại lợi ích cho Việt Nam, mà cả cho Hoa Kỳ. Đối với Việt Nam, điều này góp phần vào việc bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, giúp chúng ta bảo vệ môi trường hòa bình để xây dựng đất nước. Còn về phía Hoa Kỳ, điều này sẽ giúp họ “tái cân bằng” chiến lược ở Châu Á-Thái Bình Dương, vì lợi ích kinh tế, an ninh của Hoa Kỳ.
Như các nhà chiến lược đã phân tích, Việt Nam có vị trí rất quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam, Biển Đông là nơi giao thoa, cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, đồng thời Việt Nam cũng là điểm nối giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Do vậy, trong chiến lược chính trị chuyển dịch trọng tâm sang Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ đặc biệt quan tâm đến Việt Nam cũng như các nước ASEAN là điều tất nhiên. Bởi vậy, quan điểm cho rằng việc cho Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) đi Mỹ là biểu hiện Việt Nam “thay đổi chiến thuật”, hoặc Việt Nam chẳng có gì để hợp tác với Hoa Kỳ ngoài số tù nhân “lương tâm” đang còn ở trong tù, làm “món hàng” để trao đổi, là nhận thức ngây thơ, ấu trĩ về chính trị.  Hơn nữa điều này là cản trở, phá hoại sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia, cản trở chính sự phát triển của dân tộc Việt Nam. 
 (1) - Văn kiện Đại hội IX, NXB CTQG, HN, 2001, tr.134. 
(2) - Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG, HN, 2011, tr.76
BẮC HÀ

Các nhà tài trợ đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách về BĐKH

Chiều 8/10 tại Hà Nội, Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) tổ chức Hội nghị với các nhà tài trợ cho Chương trình Hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu (SP - RCC) và các đối tác phát triển.
Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Thường trực UBQG về BĐKH Hoàng Trung Hải đã tới dự và chủ trì cuộc họp. Cùng dự có Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà, Giám đốc Ngân hàng thế giới tại Việt Nam bà Victoria Kwakwa, đại diện cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản cùng đại diện các Bộ, ban, ngành và các nhà tài trợ quốc tế.
Toàn cảnh hội nghị
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhận định, Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định trong ứng phó với BĐKH. Đây là việc lâu dài, đòi hỏi sự cam kết dài hạn không chỉ của Chính phủ, của các ban, ngành mà của toàn xã hội. Tại Hội nghị này, Phó Thủ tướng mong muốn nhận được những đóng góp cũng như những giải pháp để công tác ứng phó với BĐKH được hiệu quả, đồng thời phát huy được nguồn lực xã hội nhiều hơn.
Theo Bộ TN&MT, chương trình SP-RCC được Chính phủ thông qua vào tháng 12/2008. Cùng với Chiến lược Quốc gia về BĐKH và Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh, đã giúp tạo dựng một khung hoạt động và đối thoại giữa các đối tác phát triển và Chính phủ Việt Nam.
Chương trình đã thu hút được tài trợ từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Thế giới (WB)… dành cho Việt Nam nhằm ứng phó với BĐKH. Bên cạnh hỗ trợ về mặt tài chính, từ năm 2009, các nhà tài trợ và chương trình SP-RCC đã phối hợp với các bộ, ngành xây dựng, ban hành nhiều văn bản và chính sách về ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh. 
Tại Hội nghị, các nhà tài trợ đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện các chính sách về BĐKH cũng như triển khai các dự án cụ thể. Đại diện của JICA cho rằng, SP – RCC đã khẳng định được mình với vị thế là một diễn đàn lớn nhất quy tụ 9 bộ và 6 đối tác phát triển chính trong chương trình, cùng nhiều đối tác tham gia khác, xung quanh bàn đối thoại về các hành động BĐKH. SP – RCC đã tạo cơ hội cho các nhà tài trợ tiếp cận trực tiếp đến các bộ, ngành để thảo luận và đàm phán về các dự án BĐKH mới.
Các nhà tài trợ cam kết sẽ tiếp tục ủng hộ công cuộc ứng phó với BĐKH ở Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh nguồn tài chính hỗ trợ từ các đối tác phát triển, nhà tài trợ, Chính phủ Việt Nam cần thu hút được nguồn tài chính từ khu vực tư nhân đầu tư cho chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH.
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá cao những việc đã làm được của Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH, trong đó chương trình đã thành công trong vai trò nâng cao nhận thức của toàn xã hội với BĐKH. Các kế hoạch, chương trình phát triển của các Bộ, ngành, địa phương đều lồng ghép với các chương trình ứng phó với BĐKH, điều này cho thấy sức lan tỏa mạnh mẽ của chương trình trong 6 năm qua. 
10 năm gần đây, số người thiệt hại do thiên tai ở Việt Nam đã giảm một nửa. Đó là một kết quả cụ thể hóa những hành động ứng phó với BĐKH. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ nhà tài trợ, Việt Nam cũng đã thu hút được khối tư nhân đầu tư vào các dự án ứng phó với BĐKH. 
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhấn mạnh: “Trong kế hoạch năm 2015, việc trồng rừng cần bàn đến khu vực tư nhân,  3.000 tỷ đồng dành cho trồng rừng sẽ huy động xã hội hóa. Thay vì Nhà nước đứng ra trồng rừng, đối với vùng có khả năng kinh tế thì giao cho tư nhân, hỗ trợ tư nhân làm và quản lý thì sẽ bền vững. Đây là cách sử dụng nguồn vốn rẻ nhất nhưng mang lại hiệu quả cao”. 
 Phó Thủ tướng cũng yêu cầu, các bộ, ban, ngành cần tiếp tục rà soát, quy hoạch và có sự phối hợp chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn trong việc thực hiện Chương trình SP-RCC, đồng thời, cần có kế hoạch ứng phó với BĐKH, bổ sung vào từng ngành, từng địa phương.
Tác giả bài viết: Theo Monre

Báo chí quốc tế đánh giá cao chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hàn Quốc

(ĐCSVN) – Chuyến thăm cấp Nhà nước tới Đại Hàn Dân Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam (từ ngày 1 – 4/10) đã đạt kết quả tốt đẹp. Đây là một trong những nội dung quan trọng được nhiều cơ quan thông tấn báo chí của Hàn Quốc và thế giới phản ánh trong tuần qua.
 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hàn Quốc Park Geun Hye. (Ảnh: Yonhap)

Với nhan đề: “Seoul và Hà Nội tái khẳng định thiện chí đạt được FTA trong năm nay”, bài viết trên trang điện tử của hãng thông tấn Yonhap dẫn tuyên bố của Văn phòng Tổng thống Hàn Quốc ngày 2/10 cho biết Hàn Quốc và Việt Nam đã thống nhất đạt được càng sớm càng tốt Hiệp định Thương mại tự do (FTA) trước khi kết thúc năm nay.
“Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 9 của Hàn Quốc với kim ngạch thương mại song phương ở mức 28,2 tỷ USD vào năm 2013” – Yonhap nhấn mạnh. Ngoài ra, hãng thông tấn Yonhap cũng dẫn lời của Tổng thống Park Geun Hye cho biết: "Tôi hy vọng hai nước có thể tăng cường quan hệ đối tác được xây dựng dựa trên tình bạn và sự tin tưởng lẫn nhau".
Trước đó, trong bài viết được đăng tải ngày 19/9 về chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hàn Quốc, hãng tin này cũng đã nhấn mạnh: Văn phòng Tổng thống Cheong Wa Dae “hy vọng chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xây dựng niềm tin và tình bạn giữa các nhà lãnh đạo hai nước và tăng cường quan hệ hợp tác lẫn nhau”.
Phản ánh chi tiết chương trình chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bài viết với nhan đề “Hàn Quốc, Việt Nam thảo luận về cách thức tăng cường hợp tác kinh tế” trên tạp chí Hàn Quốc Korea.net cho biết trong các cuộc hội đàm, hai nhà lãnh đạo đã đánh giá sự phát triển của mối quan hệ song phương kể từ chuyến thăm chính thức của Tổng thống Park đến Việt Nam hồi năm ngoái; đồng thời thảo luận về định hướng tương lai của mối quan hệ quan hệ hợp tác giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Bài báo trích dẫn tuyên bố của Tổng thống Hàn Quốc Park Geun Hye nhấn mạnh kể từ khi thiết lập quan hệngoại giao vào năm 1992, Hàn Quốc và Việt Nam đã cho thấy sự tiến bộ đáng kể trong quan hệ song phương. Tổng thống Park Geun Hye cho rằng cả hai quốc gia Hàn Quốc và Việt Nam đều xác định đây là mối quan hệ đối tác hợp tác quan trọng trong mọi lĩnh vực như chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội và văn hóa; đồng thời bày tỏ hy vọng hai nước có thể xây dựng tình hữu nghị và sự tin tưởng làm sâu sắc thêmquan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước. Nhà lãnh đạo Hàn Quốc cũng hy vọng rằng Tuyên bố chung vừađược thông qua có thể mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ hợp tác song phương giữa Hàn Quốc và Việt Nam
 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Park Geun Hye chứng kiến Lễ ký văn kiện hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc. (Ảnh: korea.net)

Bên cạnh đó, một trong những sự kiện hợp tác kinh tế được báo giới chú ý lần này là việc tập đoànSamsung Electronics của Hàn Quốc đầu tư lớn vào Việt Nam.
Hãng Thông tấn Yonhap của Hàn Quốc đưa tin về việc tập đoàn Samsung Electronics của Hàn Quốc đầu tư tổng số vốn 1,4 tỷ USD để nghiên cứu, phát triển và sản xuất các sản phẩm, thiết bị điện tử gia dụng công nghệ cao tại Việt Nam.
Trong khi đó, thời báo Korea IT Times cũng nhấn mạnh bước đi đột phá của tập đoàn Samsung Electronicstại Việt Nam càng khẳng định ý nghĩa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đặc biệt là cuộc làm việc trực tiếp với Phó Chủ tịch Samsung Lee Jae-yong. Theo tác giả bài báo, đây là dấu hiệu rõ ràng cho thấy Việt Nam đang rất sẵn lòng chào đón các nguồn đầu tư từ Hàn Quốc.
Cùng chia sẻ về ý nghĩa quan trọng của việc Chủ tịch tập đoàn Samsung Electronics đã nhận giấy chứng nhận đầu tư từ lãnh đạo UBND thành phố Hồ Chí Minh dưới sự chứng kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hãng tin Ria Novosti (Nga) cũng nhấn mạnh tới thực tế là hàng điện tử chiếm tới gần ¼ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn thu mà ngành hàng này mang lại trong năm ngoái cho Việt Nam tăng gấp đôi so với chỉ một năm trước đó.

Có thể thấy rõ ràng rằng, với những kết quả tốt đẹp đã đạt được, chuyến thăm Hàn Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần quan trọng thúc đẩy toàn diện và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Việt Nam – Hàn Quốc, thiết thực triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trong đó coi trọng và dành ưu tiên phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, tăng cường chiều sâu trong quan hệ với các đối tác quan trọng của Việt Nam. Chuyến thăm đã nhận được sự quan tâm, đánh giá cao của dư luận báo chí Hàn Quốc và thế giới./.
Khánh Linh (Tổng hợp)

VN nhận giải “Thành tựu xuất sắc” đột biến tạo giống lúa

Giải thưởng “Thành tựu xuất sắc” về đột biến tạo giống lúa là 1 trong 3 giải giành cho Việt Nam trong tổng số 23 giải IAEA trao cho các nước thành viên.
Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực quốc tế (FAO),  thông qua Phòng thí nghiệm liên hợp FAO/IAEA đã tổ chức trao giải thưởng cho các cá nhân và tổ chức của các nước thanh viên đã có thành tựu trong lĩnh vực đột biến tạo giống phục vụ cho việc bảo đảm an ninh lương thực.
Ông Yukiya Amano, Tổng Giám đốc IAEA trong lễ trao giải ở Đại hội đồng IAEA lần thứ 58 ở Áo.
Cuộc trao giải lần này được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Phòng thí nghiệm liên hợp FAO/IAEA giữa Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực quốc tế (FAO) về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong lĩnh vực nông nghiệp và lương thực và nhân dịp Đại hội đồng IAEA lần thứ 58 diễn ra từ ngày 22 đến 26/9/2014 tại Thành phố Vienna, nước Áo.
Thông qua Bộ Khoa học và Công nghệ, Việt Nam đã gửi 3 hồ sơ đăng ký xét tặng giải thưởng và cả 3 hồ sơ đều được IAEA, qua một quá trình xét duyệt rất chặt chẽ với các tiêu chí định lượng cụ thể, trao giải trong đó có một giải thưởng được xếp loại “thành tựu xuất sắc” về các kết quả đã đạt được trong lĩnh vực đột biến tạo giống bằng bức xạ.
Giải thưởng “thành tựu xuất sắc” về đột biến tạo giống trao cho Viện Di truyền Nông nghiệp là một trong các đơn vị đi đầu trong lĩnh vực tạo giống bằng đột biến phóng xạ. Viện đã tạo ra được nhiều giống cây trồng như lúa, ngô, đậu tương, hoa,…được công nhận là giống quốc gia và được gieo trồng trên hàng trăm nghìn ha.
Hai giải thưởng khác trao cho tập thể Viện Khoa học Nông nghiệp Miền Nam và Trung tâm Hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh, và cho 2 cá nhân (Hồ Công Cua và Trần Tấn Phương) thuộc Sở KH&CN Long An đã đạt được các thành tích trong lĩnh vực đột biến tạo giống.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với trên 70% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp. Chính phủ Việt Nam đã chủ trương đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, trong đó có khoa học và công nghệ hạt nhân trong lĩnh vực lương thực và nông nghiệp để bảo đảm an ninh lương thực và đã đưa Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu lúa, gạo.
Đột biến tạo giống bằng bức xạ là kỹ thuật được nghiên cứu ứng dụng ở Việt Nam từ những năm 1970. Với sự giúp đỡ của IAEA, từ những năm 1980, thông qua các dự án hợp tác kỹ thuật, các cơ sở nghiên cứu nông nghiệp của Việt Nam (Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Khoa học nông nghiệp Miền Nam, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, Trung tâm Hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt và một số sở KH&CN) đã đẩy mạnh hướng nghiên cứu ứng dụng này. Nhiều giống đột biến phóng xạ đã được tạo ra với năng suất cao, chất lượng tốt và chống chịu được với các điều kiện môi trường khắc nghiệt như nhiễm mặn, chống chịu sâu bệnh. Một trong 5 giống lúa phục vụ xuất khẩu chủ lực hiện nay của Việt Nam là được tạo ra từ đột biến phóng xạ. Trên 50% diện tích đất canh tác đậu nành hiện nay là sử dụng giống đột biến phóng xạ.
Việt Nam được IAEA đánh giá là nước đứng hàng thứ 8 trên thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu về đột biến tạo giống. Hiện nay hàng năm Việt Nam sản xuất 43 triệu tấn lúa, xuất khẩu 6 triệu tấn mang về trên 3 tỷ USD. Sản xuất lúa không chỉ đem lại an ninh lương thực cho Việt Nam mà còn giúp cho người nông dân tăng thu nhập, giảm đói nghèo trong thời gian qua. Các giống lúa đột biến hiện được gieo trồng trên 3,5 triệu ha và đã làm tăng thu nhập cho người nông dân trên hàng trăm triệu USD mỗi năm.
Giống lúa đột biến VND-95-20 với chất lượng cao và khả năng chống chịu ngập mặn là giống chủ lực để xuất khẩu đã chiếm 30% trên tổng số 1 triệu ha đất canh tác tại Đồng bằng Sông Cửu Long. Giống lúa đột biến VND-99-3 với chất lượng cao thích hợp cho xuất khẩu có thời gian sinh trưởng chỉ 100 ngày và có thể gieo trồng 3 vụ một năm.
Giống lúa đột biến DT10 được tạo ra trong những năm 1990 và từ đó đến nay đã tạo ra tổng giá trị thu nhập lên đến 3 tỷ USD, tăng thêm 537,6 triệu USD so với việc sử dụng các giống cũ. Trên 3 triệu nông dân đã được hưởng lợi từ việc sử dụng giống lúa này.
Năm 2007, giống Kháng Dân đột biến đã được tạo ra và nhanh chóng trở thành một giống quan trong trong sản xuất lúa gạo của Việt Nam. Dự kiến sẽ có 1,2 triệu ha đất được sử dụng để trồng loại lúa này tạo ra khoảng 268,8 triệu USD thu nhập tăng thêm cho khoảng 1,5 triệu nông dân.
Tham dự lễ trao giải thưởng của IAEA ngày 24/9/2014, có Tổng Giám đốc IAEA, ông Yukiya Amano và các quan chức của IAEA, đại diện của các nước tham dự khóa họp Đại hội đồng IAEA lần thứ 58. Đoàn Việt Nam tham dự khóa họp Đại hội đồng IAEA lần thứ 58 đã tham dự buổi lễ do Đại sứ Nguyễn Thiệp dẫn đầu, trong đoàn còn có có các vị lãnh đạo của Viện Năng lượng Nguyên tử VN, Cục NLNTVN, Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân…
Trước đó, Phòng thí nghiệm liên hợp FAO/IAEA đã tổ chức họp báo về các thành tựu của việc ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong lĩnh vực đột biến tạo giống. Đại sứ Nguyễn Thiệp là đại biểu duy nhất của các nước thành viên IAEA được mời tham gia họp báo và phát biểu với báo giới.
Đại sứ đã nhấn mạnh về chính sách của Việt Nam trong việc thúc đẩy ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển kinh tế xã hội, trong đó có khoa học và công nghệ hạt nhân, trong lĩnh việc nông nghiệp và phát triển nông thôn phục vụ mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
T.M. (Theo tài liệu Varans)

Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản

GiadinhNet - Ngày 22/9 vừa qua, tại trụ sở Liên Hợp Quốc (New York- Mỹ), phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về Dân số và Phát triển đã được tổ chức. Phiên họp đặc biệt này đánh dấu mốc 20 năm thực hiện Chương trình hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) được tổ chức tại Cairo năm 1994 và tái khẳng định tiếp tục thực hiện Chương trình hành động này.
Đoàn Việt Nam bên lề phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về Dân số và Phát triển. Ảnh: T.L
Ứng phó với các thách thức mới liên quan đến dân số

Phiên họp đặc biệt này của Liên Hợp Quốc là cơ hội để cộng đồng quốc tế cùng nhau tìm cách ứng phó với các thách thức mới liên quan đến dân số và phát triển (như già hóa dân số và biến đổi khí hậu...) và tăng cường lồng ghép các vấn đề dân số vào Chương trình phát triển sau năm 2015.
Tại đây, GS. TS Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam đã có bài phát biểu quan trọng. Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh: “Trong 20 năm qua, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện Chương trình hành động ICPD. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội ở đất nước, tình trạng sức khỏe của người dân Việt Nam, đặc biệt là tình trạng sức khỏe sinh sản (SKSS) và sức khỏe tình dục đã được cải thiện đáng kể”.
Với những thành tựu này, Việt Nam trở thành một trong số ít nước trên thế giới được đánh giá đạt tiến độ thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ 4 và 5 vào năm 2015. Trong những năm tới, cùng với các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, duy trì an ninh, trật tự xã hội và phát triển bền vững, Việt Nam sẽ ưu tiên tập trung một số nội dung chính trong Chương trình phát triển bền vững của mình như:  Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách, luật pháp để đáp ứng các biến động về nhân khẩu học như già hóa dân số, di dân, đô thị hóa, mất cân bằng giới tính khi sinh...Tiếp tục tăng cường hệ thống y tế để đảm bảo quyền tiếp cận phổ cập các dịch vụ SKSS, sức khỏe tình dục, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo vùng sâu, vùng xa, dân di cư. Mở rộng, nâng cao chất lượng mạng lưới dịch vụ chăm sóc SKSS, sức khỏe tình dục thân thiện với vị thành niên và thanh niên; lồng ghép giáo dục giới tính, SKSS, sức khỏe tình dục, kỹ năng sống trong hệ thống trường học phù hợp với cấp bậc học và lứa tuổi.
Ưu tiên cho các mục tiêu về bình đẳng giới
Tại phiên họp, các đại biểu đã được nghe 2 báo cáo quan trọng: Thứ nhất là báo cáo đánh giá việc thực hiện Chương trình hành động ICPD. Thứ hai là báo cáo chỉ số về chủ đề và các yếu tố quan trọng được xác định trong các phiên họp của Ủy ban Dân số và Phát triển, đặc biệt là tại phiên họp 47 năm 2014, trong đó tập trung vào việc đánh giá Chương trình hành động ICPD.
Báo cáo chỉ số tổng hợp các nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền con người, lấy con người làm trung tâm của Chương trình nghị sự phát triển sau năm 2015, nhằm kêu gọi ưu tiên cho các mục tiêu về bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ, đầu tư cho những người trẻ tuổi, tăng trưởng kinh tế và tiếp cận phổ cập tới SKSS, sức khỏe tình dục.
Báo cáo về đánh giá việc thực hiện Chương trình hành động ICPD nhấn mạnh sự tiến bộ đáng kể đã đạt được từ năm 1994 trong việc thực hiện bình đẳng cho phụ nữ, chăm sóc sức khỏe người dân và tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và giảm nghèo bền vững...
Bản báo cáo cũng kêu gọi cộng đồng cần chú ý đến các nhu cầu quan trọng để mở rộng quyền con người và bảo vệ tất cả mọi người không bị phân biệt đối xử và bạo lực, đầu tư vào y tế và giáo dục trọn đời...
Khi 179 quốc gia họp ở Cairo tại Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển vào năm 1994 thì dân số thế giới lúc đó là 5,7 tỷ người. Ngày nay, con số đó đã là 7,2 tỷ. Mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm đi nhưng theo dự báo của Liên Hợp Quốc dân số thế giới có thể đạt 9,6 tỷ vào năm 2050, mà phần lớn sự gia tăng tập trung ở các nước nghèo nhất.
Báo cáo tình hình dân số thế giới năm 2014 của Ban Dân số Liên Hợp Quốc cho thấy, tốc độ tăng trưởng dân số trong tương lai sẽ chủ yếu tập trung ở châu Phi và châu Á. Khoảng 40% tăng trưởng dân số toàn cầu sẽ xảy ra tại các quốc gia kém phát triển nhất trên thế giới. “Có rất ít yếu tố sẽ định hình tình hình phát triển toàn cầu trong tương lai mang tính nền tảng như các mô hình và xu hướng dân số…”, Thomas Gass, Trợ lý Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc cho biết.
Đảm bảo sự tiếp cận các dịch vụ KHHGĐ
Dân số giảm và già hóa dân số tăng nhanh là những mối quan tâm lớn đối với nhiều Chính phủ. Từ năm 2014 đến 2050, dân số của hơn 40 quốc gia và khu vực chính dự báo sẽ giảm. Châu Âu được dự báo sẽ trải qua sự suy giảm dân số sau năm 2020. Số lượng những người trẻ tuổi đã phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây, nhưng dự kiến sẽ tương đối ổn định trong vòng 35 năm tới. Năm 2014, có 1,2 tỷ người trong độ tuổi từ 15 đến 24. Những người trẻ ngày nay khỏe mạnh hơn so với cùng nhóm tuổi này năm 1994. Họ có nhiều khả năng đi học, tham gia lực lượng lao động và kết hôn, sinh đẻ muộn hơn.
Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi, ngược lại, dự kiến sẽ tiếp tục tăng. Trên toàn cầu, tỷ lệ người cao tuổi (60 tuổi trở lên) trong tổng dân số tăng từ 9% năm 1994 lên 12% năm 2014 và dự kiến sẽ đạt 21% vào năm 2050, số người trên 60 tuổi tăng gần gấp đôi từ năm 1994 đến 2014. Số người lớn tuổi hôm nay đông hơn trẻ em dưới 5 tuổi. Các quốc gia cần có chính sách tốt hơn để đảm bảo an ninh kinh tế cho tuổi già, nhằm cải thiện chăm sóc sức khỏe ở mọi lứa tuổi và tăng cường cơ chế hỗ trợ gia đình.
Hiện hơn 90% Chính phủ trên thế giới đã hỗ trợ cho các chương trình KHHGĐ. Tuy nhiên, chỉ vài quốc gia đạt được mức tối thiểu giảm 50% nhu cầu chưa được đáp ứng về KHHGĐ. Cộng đồng cần nỗ lực hơn nữa để đảm bảo sự tiếp cận phổ cập tới thông tin, tư vấn và dịch vụ KHHGĐ tự nguyện và chất lượng cao ở tất cả các nước trên thế giới.
Hơn một nửa dân số thế giới  đang sống ở khu vực đô thị, tăng từ 2,3 tỷ người năm 1994 lên 3,9 tỷ vào năm 2014 và dự kiến sẽ tăng thêm 6,3 tỷ người vào năm 2050. Tốc độ tăng nhanh của dân số đô thị là một thách thức để quy hoạch đô thị bền vững và quản trị tốt. Các chính sách đô thị để cải thiện tiếp cận giáo dục, y tế, nhà ở và các dịch vụ khác, giảm thiểu tác động môi trường và mở rộng cơ hội kinh tế là hết sức cần thiết.
Số người di cư quốc tế trên toàn thế giới là 232 triệu vào năm 2013, trong khi năm 1990 là 154 triệu. Số lượng dân sống ở ngoài nước nơi họ sinh ra lớn nhất từ xưa đến nay, con số này dự báo tiếp tục tăng trong tương lai. Di cư quốc tế ngày càng được công nhận là nhân tố cho phát triển kinh tế, xã hội. Do vậy, cần tăng cường nỗ lực hơn nữa để đảm bảo di dân an toàn, trật tự.
Điểm sáng trong các chương trình hợp tác với UNICEF
Ngoài việc tham dự Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến còn thực hiện một số cuộc họp song phương.
Bộ trưởng đã gặp và trao đổi với bà Geeta Rao Gupta, Phó Giám đốc chấp hành Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). Bộ trưởng thay mặt Chính phủ Việt Nam cám ơn UNICEF đã giúp đỡ Việt Nam trong các chương trình dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe trẻ em, nuôi con bằng sữa mẹ, cung cấp và sản xuất vaccine, chương trình nước sạch... Bà Geeta Rao Gupta đánh giá cao các nỗ lực của Việt Nam trong việc chăm sóc trẻ em và cho biết UNICEF coi Việt Nam là điểm sáng trong các chương trình hợp tác, hỗ trợ của UNICEF.
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cũng có buổi làm việc với bà Anne-Birgitte Albrectsen, Trợ lý Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, Phó Giám đốc chấp hành Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA). Bà Anne-Birgitte Albrectsen đánh giá cao Việt Nam vì các thành tựu Việt Nam đã đạt được trong lĩnh vực DS-KHHGĐ, SKSS và cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là xây dựng Luật Dân số. Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến đánh giá cao sự hỗ trợ quý báu của UNFPA cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua và mong UNFPA tiếp tục giúp đỡ Việt Nam xử lý các vấn đề dân số mới nảy sinh như mất cân bằng giới tính khi sinh, già hóa dân số, tận dụng cơ hội dân số vàng...
Đinh Huy Dương (Phó Vụ trưởng,Vụ Tổ chức cán bộ, Tổng cục DS-KHHGĐ) 

"Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về dân số và phát triển"

Trường Sơn - Việt Hùng (Thời sự - thoisuvtv@vtv.vn)Cập nhật 20:16 ngày 23/09/2014
Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến (Ảnh: Báo Tiền phong)
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc thực hiện Chương trình Hành động của Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển của LHQ diễn ra năm 1994 tại Cairo.
Đó là tuyên bố của Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến tại phiên họp đặc biệt lần thứ 20 của Đại Hội đồng LHQ khóa 69 tổ chức ngày 22/9 tại New York.
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, trong 20 năm qua, cùng với những phát triển về kinh tế - xã hội, thực trạng sức khỏe của người dân Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt.
Trong giai đoạn 1990-2010, tỷ lệ tử vong ở các ca thai sản giảm gần 75%, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm hơn 50%. Việt Nam trở thành một trong số ít các nước trên thế giới đang trên đà có thể đạt được những mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) thứ 4 và thứ 5 vào năm 2015.
Theo người đứng đầu ngành y tế, những năm tới, bên cạnh các chính sách nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế xã hội, phát triển bền vững và an sinh xã hội, Việt Nam sẽ tập trung vào chương trình phát triển bền vững.

Chương trình này gồm phát triển các chính sách và luật pháp phù hợp để đối phó với tình trạng dân số già đi, di cư và đô thị hóa, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh và bình đẳng giới; tăng cường năng lực cho hệ thống chăm sóc sức khỏe để bảo đảm sự tiếp cận phổ cập sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, đặc biệt là cho các cộng đồng dân tộc thiểu số và những người di cư từ nông thôn ra thành phố; mở rộng và cải thiện chất lượng các dịch vụ sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục thân thiện với giới trẻ, trong đó có việc lồng ghép giáo dục tình dục toàn diện vào chương trình học tập và giáo dục về các kỹ năng sống.