Tuesday, October 2, 2018

Cách mạng Tháng Tám trong mắt bạn bè quốc tế

30/08/2018 - 16:13
Biên phòng - Cách mạng Tháng Tám và sự kiện Ngày 2-9-1945 của Việt Nam đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà sử học, các học giả quốc tế. Nhiều bài báo, cuốn sách, công trình nghiên cứu về cuộc Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam của các nhà sử học quốc tế đã ra đời, trong đó ghi nhận Cách mạng Tháng Tám đặc biệt có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc Việt Nam, mà còn tác động tới nhiều nước thuộc địa trên thế giới khi đó.
p1fc_24c
Cuộc mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do mặt trận Việt Minh tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ngày 19-8-1945. Ảnh: Tư liệu
Cuộc cách mạng có sự đồng lòng của cả dân tộc
Nói tới Việt Nam là nói tới một dân tộc từng chiến thắng nhiều triều đại phong kiến phương Bắc, thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, nhà báo Jorge Tuero của Argentina đã từng ca ngợi như vậy khi nói về thành công của Cách mạng Tháng Tám. Ông cho rằng, cuộc cách mạng đã chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến và tái khẳng định nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là đòn chí mạng giáng vào chủ nghĩa thực dân, mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới giành độc lập dân tộc.
“Cách mạng Tháng Tám thành công cũng là minh chứng của việc đưa ra sách lược đúng đắn, cũng như khả năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Việt Minh. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình, đưa ra những quyết sách cần thiết vào thời điểm thích hợp, kết hợp với quá trình chuẩn bị cả về chính trị và quân sự kỹ lưỡng để đảm bảo tính đoàn kết dân tộc, trên cơ sở khối liên minh công nông đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945” - Nhà báo Argentina nhấn mạnh.
Giáo sư người Nga Aleksandr Sokolovsky cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự hình thành của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có ý nghĩa rất to lớn. Động lực thúc đẩy cuộc cách mạng này chính là tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Mục đích của Cách mạng Tháng Tám trước hết là nhiệm vụ giải phóng đất nước khỏi những kẻ ngoại xâm - thực dân Pháp và quân phiệt Nhật. Khi cuộc cách mạng thắng lợi, những từ chính yếu nhất trong Bản Tuyên ngôn Độc lập chính là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Bản thân cuộc cách mạng đã diễn ra không phải dưới khẩu hiệu của chủ nghĩa Marx “vô sản các nước liên hiệp lại” mà là “Độc lập - tự do - hạnh phúc”.
Ông nhấn mạnh: “Tôi không hình dung điều gì sẽ đến với Việt Nam nếu không có cuộc cách mạng này, thậm chí khái niệm Việt Nam thống nhất cũng sẽ không tồn tại. Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một trang sử mới, một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam” - Ông Aleksandr Sokolovsky nói.
Nhà sử học người Pháp Charles Fournieau khi còn sống từng nói rằng, Cách mạng Tháng Tám hết sức quan trọng không chỉ đối với Việt Nam, mà còn cho cả các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới, nhất là các nước châu Phi. Đây là cuộc cách mạng thực sự, với sự đồng lòng, chung sức của cả dân tộc. Ông Fournieau cũng bày tỏ lòng kính trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - Người anh hùng giải phóng dân tộc, Người đã dành cả cuộc đời mình để lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Sự kiện chính trị chấn động có tiếng vang trên toàn cầu
Thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám cũng là chủ đề nghiên cứu của các chuyên gia, sử gia người Pháp. Nhà sử học Alain Ruscio đã dành hơn 30 năm nghiên cứu về lịch sử Việt Nam và có ít nhất 15 tác phẩm viết về lịch sử Việt Nam, các cuộc kháng chiến, về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam. Ông viết: “Chiến thắng năm 1945 của Việt Nam không chỉ là sự kiện gây bất ngờ, mà đó cũng là sự tất yếu mang tính logic trong lịch sử phong trào đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ, nhất là các nước ở châu Phi”.
Đồng tình với quan điểm trên, Giáo sư Aleksandr Sokolovsky cho rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp giải phóng của các dân tộc khác ở Nam Á và Đông Nam Á. Trước tấm gương tích cực của Việt Nam, năm 1946, Ấn Độ đã được giải phóng khỏi sự thống trị của Anh. Năm 1949, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa được hình thành. Sau đó, các dân tộc khác ở châu Á cũng dần dần được giải phóng như Myanmar, Indonesia, Philippines, Triều Tiên.
73 năm qua đã ghi dấu những nỗ lực phi thường của nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để xây dựng, bảo vệ nền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ, mở rộng quan hệ hợp tác và tạo môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước và cải thiện đời sống nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta, đất nước ta đã có những chặng đường vẻ vang và đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có các bước phát triển về kinh tế, thương mại, quốc phòng-an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đóng góp tích cực cho hòa bình phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Thu Uyên

30 năm đổi mới: Cả dân tộc đã vươn mình

29/08/2018 11:23

30 năm qua là giai đoạn Việt Nam trải qua thời kỳ đổi mới đầy thử thách, cam go. Nhưng cũng vì thế mà kết quả đạt được thực sự là ấn tượng. Không ít người coi những kết quả đó là “ngoạn mục”.

Việt Nam - điểm đến hấp dẫn của dòng vốn nước ngoài.
Việt Nam - điểm đến hấp dẫn của dòng vốn nước ngoài.
Tuy nhiên, chưa thể nói chúng ta hài lòng với kết quả này, đặc biệt khi Việt Nam đứng trước thử thách hội nhập sâu, rộng và cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 tới đây, trong khi các vấn đề nền tảng của cấu trúc kinh tế ngày càng bộc lộ rõ mức độ hạn chế. Xung quanh chủ đề này, phóng viên TBTCVN đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.
PV: Thưa ông, nhìn lại chặng đường đổi mới 30 năm qua của Việt Nam, ông đánh giá thế nào về những thành tựu chúng ta đã đạt được?
 PGS.TS.Trần Đình Thiên
 PGS.TS.Trần Đình Thiên
- PGS.TS.Trần Đình Thiên: Việt Nam được đánh giá là một trong những trường hợp chuyển đổi kinh tế - xã hội thành công nhất trên thế giới trong mấy thập niên vừa qua. Sau 30 năm, từ một nước đói nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, với sự trói buộc mấy nghìn năm của di sản kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên thành nước thu nhập trung bình. Đây là thành tích rất đáng kể và ấn tượng. Trong thành tích đó, phải nhấn mạnh “kỳ tích” xóa đói giảm nghèo. Thành tích xóa đói giảm nghèo của Việt Nam thật sự đã gây ấn tượng mạnh mẽ khi tỷ lệ người nghèo từ hơn 80% dân số, sau 30 năm giảm xuống còn khoảng 6%. Hơn 60 triệu người đã thoát nghèo. Hầu như cả một dân tộc đã vươn mình. Chuyển sang phát triển kinh tế thị trường thực sự là một sự lựa chọn đúng đắn, giúp cho cả dân tộc “đổi đời”.
Thoát nghèo là đặc biệt có ý nghĩa về phương diện đời sống, ở khía cạnh chính trị - xã hội. Nhưng điều quan trọng không kém là ở khía cạnh thị trường: nền kinh tế có thêm 60 triệu người có thể gia nhập thị trường với tư thế độc lập và bình đẳng, bớt phải dựa dẫm vào cơ chế “xin cho, bao cấp” của Nhà nước. 
Gắn liền với thành tựu đó, Việt Nam đã từng bước phát triển các thị trường bậc cao, nhờ đó, nâng cấp thị trường cho cả nền kinh tế. Ngay sau khi phát động đổi mới, Việt Nam chuyển ngay sang hệ thống ngân hàng hai cấp, từ ngân hàng một cấp, chỉ phục vụ Nhà nước, thành hệ thống ngân hàng hai cấp, với đối tượng phục vụ ngày càng quan trọng là người dân, doanh nghiệp, là các chủ thể thị trường. Đây là một thay đổi rất căn bản, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại.
Hay về cấu trúc ngân sách, yếu tố thị trường đã làm thay đổi cơ bản. Phần thu từ khu vực tư nhân, kinh tế hộ gia đình, FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), từ thị trường… chiếm tỷ lệ ngày càng lớn, chia sẻ “sân chơi” với nguồn thu từ khu vực Nhà nước vốn mang tính chất “độc quyền”. Nhiều nguồn lực như đất đai, tài nguyên được chuyển hóa thành nguồn lực thị trường, tạo năng lực đóng góp thị trường tăng gấp bội.
Nhờ mở cửa, hội nhập quốc tế thành công, Việt Nam cũng tiếp cận các nguồn lực tài chính quốc tế mạnh mẽ hơn như vốn ODA, vốn ưu đãi và nhất là vốn FDI. Những chính sách cải cách cởi mở đã biến Việt Nam thành một điểm đến đặc biệt hấp dẫn của dòng vốn nước ngoài. Có thể nói, dù nhìn dưới góc độ nào thì cấu trúc thị trường, cấu trúc sản phẩm, hệ thống tài chính, đều thấy những thay đổi căn bản và tích cực.
Biểu đồ 1Tuy nhiên, đứng ở góc độ điều hành vĩ mô gắn với thị trường tài chính thì chúng ta đã có những lúc thăng trầm. Đầu tiên, khi khu vực Đông Á khủng hoảng tài chính, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhưng mức độ không quá lớn. Căn nguyên chính là do cơ cấu kinh tế của Việt Nam vẫn yếu, vẫn chủ yếu dựa vào kinh tế nhà nước, hộ gia đình, khiến cho nền kinh tế khi va đập vào khủng hoảng đã bị tác động mạnh. Chúng ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm điều hành vĩ mô, xử lý các vấn đề lạm phát, tỷ giá trong bối cảnh kinh tế thị trường – mở cửa nên chịu tác động tiêu cực nhiều. Phải mất mấy năm, từ năm 1997 đến 2001 nền kinh tế mới gượng lại được.
Giai đoạn sau năm 2007, khi chúng ta gia nhập WTO, cũng là giai đoạn nền kinh tế khá thăng trầm. Sau khi gia nhập WTO, lạm phát tăng cao do luồng vốn nước ngoài vào nhiều, chúng ta lại phản ứng không kịp thời, không trung hòa được ngoại tệ vào nền kinh tế. Lạm phát tăng cao, kéo dài đến tận năm 2013 - 2014, nền kinh tế lâm vào bất ổn và đứng trước bờ vực khủng hoảng.
Bài học đó đến nay chúng ta đang vận dụng để ứng phó với biến động của thị trường và có vẻ đang mang lại kết quả tích cực. Nhìn lại lịch sử mấy chục năm đổi mới, đây là những nút thắt quan trọng. Qua đó chúng ta đã trưởng thành hơn.
PV: Vậy đối với riêng lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ông đánh giá thế nào về những kết quả sau những năm đổi mới?
- PGS.TS.Trần Đình Thiên: Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế, thị trường tài chính, tiền tệ của chúng ta cũng có những bước tiến đáng kể. Ngành chứng khoán của chúng ta ra đời sớm, từ năm 1997 (mở cửa thị trường từ năm 2000 - PV). Từ những bước đi sơ khai ban đầu, trải qua các biến động, đến nay sau hơn 18 năm, thị trường chứng khoán đã vận hành ngày càng theo chuẩn mực quốc tế. Mặc dù, năng lực thị trường còn chưa mạnh, quy mô còn nhỏ, nhưng không thể phủ nhận là thị trường đã trưởng thành hơn nhiều, ngày càng trở thành kênh quan trọng cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Biểu đồ 2
Hệ thống ngân hàng có thời kỳ “bùng nổ” quá đà, không tuân thủ các nguyên tắc an toàn cơ bản, bị lợi dụng để đầu cơ, kiếm lợi nên về thực chất, là tác nhân gây mất ổn định, trở thành một khâu yếu chí tử của nền kinh tế. Nền kinh tế đã phải trả giá rất lớn vì những yếu kém và tổn thất do hệ thống ngân hàng gây ra. Đây thực sự là bài học đắt giá.
Gần đây, nhờ nỗ lực “siết chặt”, hệ thống ngân hàng đã tốt lên, bớt loạng choạng. Cách xử lý các vấn đề mang tính hệ thống chắc chắn hơn. Nợ xấu được kiểm soát chặt, nhiều ngân hàng yếu đã khôi phục sự ổn định, tăng cường lòng tin cho tương lai của hệ thống ngân hàng.
Về ngân sách, hệ thống ngân sách của Việt Nam đã qua nhiều lần cải cách, Luật Ngân sách Nhà nước đã có nhiều thay đổi, nâng cấp, tiếp cận nhiều thông lệ tốt. Tuy nhiên, sự cải thiện trên thực tế vẫn chưa được như mong muốn. Bởi khi chuyển từ hệ thống bao cấp sang thị trường, chúng ta vẫn còn bảo lưu cơ chế xin cho. Hệ thống ngân sách “mềm” quá lâu, qua nhiều lần cải cách vẫn không thực hiện được hệ thống phân bổ ngân sách với các cam kết thị trường nghiêm khắc và chặt chẽ. Đó là vấn đề cần phải giải quyết.
Một vấn đề nảy sinh gần đây là tình trạng giải ngân vốn đầu tư công rất chậm, bộc lộ những bất cập trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách. Mặc dù chúng ta đã cố gắng để sửa luật, đã áp dụng cơ chế đầu tư công trung hạn, kế hoạch tài chính 5 năm nhưng vẫn chưa khắc phục được tình trạng trên, phải tiếp tục sửa.
Về tài chính đối ngoại, Việt Nam là nước đi sau, đã tận dụng được kinh nghiệm của các nước, sử dụng tốt tài chính đối ngoại để phát triển, thu hút FDI, dùng công cụ tỷ giá uyển chuyển để thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Tuy nhiên, phân tích sâu hơn, theo ý kiến của tôi, chúng ta đã giữ tỷ giá khá ổn định trong điều kiện lạm phát biến động mạnh trong thời gian dài, gây mất cân bằng trong tương quan đối ngoại, làm thiệt cho nền kinh tế về mặt chiến lược cho dù có hỗ trợ phần nào sự ổn định ngắn hạn. Đây là bài toán lớn phải quan tâm giải quyết, đặc biệt trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay.
Về bộ máy tài chính, các lĩnh vực chức năng đã tốt dần lên. Trước đây, thời gian làm thủ tục hải quan, nộp thuế, bảo hiểm xã hội của Việt Nam rất dài, là điểm nóng mà doanh nghiệp than phiền nhiều nhất. Tuy nhiên, sau vài năm nỗ lực cắt giảm thủ tục, kết quả đạt được khá rõ ràng. Hải quan, thuế là những lĩnh vực được đánh giá là đi đầu trong cải cách thủ tục. Dù còn tồn tại những vấn đề, nhưng xu thế cải cách tích cực dần lên là rõ. Chính phủ và các bộ hiểu ngày càng thực chất rằng cải cách chậm sẽ rất nguy hiểm. Chậm cải cách, không tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp khó phát triển. Khi đó nguồn thu ngân sách, nền kinh tế bị ảnh hưởng. Để nền kinh tế phát triển lành mạnh, ngân sách bền vững thì hệ thống doanh nghiệp phải mạnh.
PV: Nhìn về giai đoạn sắp tới của nền kinh tế, theo ông đâu là vấn đề quan trọng mà chúng ta cần khắc phục ngay?
- PGS.TS.Trần Đình Thiên: Thành tựu đã đạt được không đảm bảo rằng Việt Nam sẽ tiếp tục thành công trong những giai đoạn tiếp theo. Có thể chỉ ra một loạt các vấn đề cấu trúc đang cản trở khả năng phát triển đột phá của đất nước. Đó là: Sự méo mó của thị trường gây ra bởi sự độc quyền và đặc quyền của doanh nghiệp nhà nước, những nút thắt thể chế, kỹ năng thấp của nguồn nhân lực, chi phí vận tải đắt đỏ, tiếp cận tín dụng, năng lượng và đất đai khó khăn…
Với nền kinh tế của chúng ta hiện nay, điểm yếu đáng lo ngại nhất chính là sức khoẻ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân yếu, doanh nghiệp FDI thì ưu đãi nhiều và do ưu đãi nhiều nên đóng góp ngân sách chưa tương xứng… Chúng ta đã có nhiều bước tiến rất đáng khích lệ theo chuẩn mực chung của thế giới, nhưng so với yêu cầu, với chính mục tiêu chúng ta đặt ra trước áp lực cạnh tranh thì các kết quả đạt được chưa thể hài lòng.
Doanh nghiệp phải là lực lượng chủ lực của nền kinh tế, là chủ thể tạo nguồn thu chính, quan trọng cho ngân sách. Doanh nghiệp yếu thì ngân sách cũng yếu, không có tấm đệm chống đỡ trước bất ổn. Trong vài năm trở lại đây, sự phức tạp của kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới đang đưa Việt Nam đứng ở một tình thế hiểm nguy hơn bao giờ hết. Dù có những thành tựu đáng tự hào và đáng ngưỡng mộ trong suốt 3 thập kỷ vừa qua, Việt Nam vẫn đang bị nhiều nước trong khu vực bỏ lại phía sau và nới rộng khoảng cách. Vị thế của Việt Nam chỉ có thể do chính Việt Nam tạo dựng và duy trì. Muốn như vậy, chúng ta phải có sự chuẩn bị bằng nội lực của mình, không thể cứ “nắng mới hỏi đến nón, mưa mới hỏi đến ô”.
PV: Xin cảm ơn ông!
Ra đời sau khi đất nước bắt đầu đổi mới, TBTCVN đến nay đã tròn 25 tuổi. Dù chưa phải là một “tên tuổi” lớn trong làng báo chí, nhưng tôi cho rằng tờ báo ngày càng chững chạc, bài bản và chuyên nghiệp. Từ những bài viết đơn giản, mang tính mô tả, báo cáo thuở ban đầu, đến giờ tính bình luận, phân tích, hệ thống và phát hiện vấn đề đã đậm nét hơn, có những góc nhìn sâu hơn, khác biệt hơn trong lĩnh vực tài chính, vốn là một lĩnh vực khô khan, không dễ hiểu, dễ đọc. Cùng với sự phát triển của công nghệ,  TBTCVN  đã cho ra đời trang báo điện tử cách đây 5 năm với các nội dung ngày càng phong phú, hình thức thể hiện bắt mắt. Đồng thời, tờ báo có bản tin truyền hình đều đặn với các thông tin chuyên sâu về lĩnh vực tài chính để tăng sự tương tác với bạn đọc. Đây là những bước trưởng thành đáng ghi nhận và chứa đầy triển vọng.
Nhân dịp 25 năm thành lập, tôi chúc TBTCVN tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin, bắt kịp xu thế phát triển của báo chí hiện đại và làm tốt vai trò là kênh thông tin chính thống, tin cậy trong lĩnh vực tài chính, ngân sách.
PGS.TS. Trần Đình Thiên
Hoàng Yến (thực hiện)

Thành tựu của ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong Trụ cột Cộng đồng kinh tế của ASEAN

Thứ Tư, 22/08/2018, 01:50:13

Hàng hóa xuất khẩu sang các nước ASEAN tại cảng Cái Lân (Quảng Ninh). Ảnh: THANH HÀ
Năm 2018 là thời điểm kỷ niệm 11 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), 20 năm gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đồng thời đặt dấu mốc kỷ niệm 23 năm Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và 51 năm tổ chức này được thành lập và không ngừng hợp tác, phát triển để hình thành nên Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
ASEAN hiện bao gồm 10 thành viên trong khu vực Ðông - Nam Á, một thị trường đứng thứ ba châu Á với hơn 650 nghìn dân, chiếm 8,59% tổng dân số thế giới, GDP bình quân đầu người đạt 4.305 USD, dự kiến con số này sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 đưa ASEAN thành cộng đồng kinh tế đứng thứ 7 trên thế giới, với tổng GDP 2.766 tỷ USD.
Qua hơn 50 năm kiên trì hợp tác và phát triển, ngoài các trụ cột hợp tác về an ninh - chính trị, văn hóa - xã hội, ASEAN cũng đã và đang tập trung vào hợp tác kinh tế thông qua việc thành lập Cộng đồng Kinh tế, coi đây là một trong ba trụ cột quan trọng nhất, nhằm hỗ trợ nhau cùng phát triển; xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh về kinh tế; lành mạnh, đa mầu sắc về văn hóa và ổn định về an ninh, chính trị; phồn thịnh về an sinh xã hội, dù còn có sự khác biệt về tôn giáo, về trình độ phát triển, về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin... song 10 nước ASEAN đã coi nhau như anh em một nhà, để hỗ trợ, giúp đỡ và cùng nhau phát triển về mọi mặt. Sự phát triển và hợp tác vững chắc của ASEAN góp phần không nhỏ vào thành tựu chung của thế giới trong thiên niên kỷ mới nói chung, nâng cao vị thế của các nước ASEAN trên trường quốc tế nói riêng, cũng như tạo tiền đề cho các khu vực khác đẩy mạnh hợp tác, coi ASEAN như "người tìm đường" trong quá trình đẩy mạnh hợp tác và liên kết kinh tế khu vực.
Một số thành tựu quan trọng trong trụ cột hợp tác kinh tế mà ASEAN đã đạt được trong những năm qua có thể kể đến như:
Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với các nước ASEAN 6 (năm nước sáng lập và Bru-nây), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng thuế của các nước gia nhập sau là Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam (các nước CLMV) đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Dự kiến, tới hết năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan trong toàn ASEAN sẽ đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp (DN) như dự án thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa...; các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-điện tử, cao-su, thực phẩm chế biến sẵn, dược phẩm và thiết bị y tế... Ngoài ra, Việt Nam và các nước ASEAN đã thực thi MRA về điện và điện tử, về kiểm tra thông lệ sản xuất thuốc tốt; đã ký MRA về nghiên cứu tương đương sinh học, về hệ thống giám định và chứng nhận an toàn thực phẩm đối với thực phẩm đã qua chế biến nhằm tạo nên một khu vực sản xuất thống nhất trong ASEAN.
Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên quan trọng trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được đàm phán nhằm tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Hiện nay, các nước ASEAN đang đặt mục tiêu sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết Nghị định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) trong năm 2018.
Về đầu tư, trước bối cảnh các khu vực cũng như các nước ASEAN ngày càng phải chịu sức cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, ngày 15-12-1995, tại Thái-lan, Hội nghị Cấp cao lần thứ 5 của ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực Ðầu tư ASEAN (AIA), nhằm tăng cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để khuyến khích đầu tư FDI vào khu vực ASEAN, nơi có nguồn lao động trẻ, rẻ và dồi dào. Sau nhiều nỗ lực thực thi AIA và Hiệp định Ðầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các nước ASEAN đã hoàn tất việc ký kết Nghị định thư thứ hai sửa đổi ACIA và tiến tới sớm hoàn thành ký kết Nghị định thư thứ ba sửa đổi Hiệp định này để tăng cường luồng đầu tư trong khu vực Ðông - Nam Á.
Về hợp tác ngoại khối, đến nay, ASEAN đã ký kết và thực hiện sáu hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm: FTA nội khối ASEAN (AFTA); và năm FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân. Tháng 11-2017, bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN 31, các nước ASEAN cũng đã ký kết FTA ASEAN - Hồng Công, Trung Quốc và Hiệp định đầu tư ASEAN - Hồng Công, Trung Quốc. Ngoài ra, hiện tại các nước thành viên ASEAN cũng đang đàm phán Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với sáu nước đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân nhằm đạt được một hiệp định FTA toàn diện với mức độ cam kết cao hơn các FTA hiện nay giữa ASEAN với các đối tác này.
Về thành tựu phát triển kinh tế, trong hơn 50 năm qua, tổng thương mại hàng hóa của các nước ASEAN với thế giới đã tăng từ 10 tỷ USD/năm lên mức 2.575 tỷ USD vào năm 2017. Tổng thương mại dịch vụ tăng từ mức 140 tỷ USD năm 1999 lên mức kỷ lục 681 tỷ USD năm 2016. Thương mại hàng hóa của ASEAN năm 2017 tăng ở mức 14,2% so năm trước, cao hơn mức tăng trưởng 11,6% của FDI. Trong đó, Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của ASEAN với tổng kim ngạch thương mại hàng hóa đạt 436,8 tỷ USD, chiếm 17,1%.
ASEAN đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài với dòng vốn FDI năm 2017 đạt 137 tỷ USD, tăng mạnh so mức 22 tỷ USD năm 2000. Ðầu tư nội khối ASEAN cũng tăng từ mức 5,6% lên 24,7% năm 2016. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thu hút FDI lớn nhất vào ASEAN, tăng từ 50,8% năm 1999 lên 80,8% năm 2016, tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và nông nghiệp. Ðầu tư FDI vào ASEAN chủ yếu có nguồn gốc từ các nước đối thoại như Liên hiệp châu Âu (EU) tăng 46% lên 30,5 tỷ USD, Nhật Bản tăng từ 7,9 tỷ USD năm 2015 lên 23,8 tỷ USD năm 2016, Trung Quốc tăng 44% lên 9,2 tỷ USD, Hàn Quốc tăng 3% lên 6 tỷ USD và Ô-xtrây-li-a tăng 77% lên 3,4 tỷ USD. Ðầu tư nội khối cũng tăng lên mức kỷ lục là 24 tỷ USD năm 2016, chiếm một phần tư dòng vốn FDI vào khu vực.
So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực Thương mại tự do ASEAN năm 1996 đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng xấp xỉ 7,7 lần, từ 5,91 tỷ USD năm 1996 lên 45,23 tỷ USD tại thời điểm tháng 11-2017, trong đó xuất khẩu hàng hóa của ta vào ASEAN tăng gần 12,4 lần, từ 1,6 tỷ USD năm 1996 lên 19,9 tỷ USD. Tính đến hết tháng 6-2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu 12,2 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu 15,9 tỷ USD. Ðến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ ATIGA là 98%.
Năm 2018, Xin-ga-po là nước Chủ tịch ASEAN đã đề ra ưu tiên trong hợp tác ASEAN gồm: Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử và hội nhập số; thành lập mạng lưới sáng tạo ASEAN; đưa vào vận hành cơ chế tự chứng nhận xuất xứ toàn ASEAN và cơ chế một cửa ASEAN; ký kết Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN; tăng cường hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN; tuyên bố ASEAN về du lịch hành trình trên biển; tăng cường hợp tác và thương mại về khí tự nhiên hóa lỏng trong ASEAN; ký Biên bản ghi nhớ với Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế; Xây dựng Quy tắc ứng xử về xây dựng xanh của ASEAN; tiếp tục đẩy mạnh quan hệ đối ngoại của ASEAN.
Ðể thực hiện các mục tiêu nêu trên của ASEAN trong năm 2018 và cũng nhằm chuẩn bị cho năm 2020 khi Việt Nam là nước Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN khác triển khai Kế hoạch Hành động chiến lược AEC 2025 (SAP); thống nhất các nội dung còn vướng mắc trên cơ sở bảo đảm Hiệp định RCEP mang lại kết quả cân bằng về lợi ích, có tính đến sự chênh lệch về trình độ phát triển của tất cả các nước và đề nghị các nước đối tác của ASEAN điều chỉnh tham vọng xuống mức khả thi cho tất cả các bên nhằm kết thúc đàm phán hiệp định này trong năm 2018; phối hợp với các nước ASEAN tiếp tục rà soát, thực thi cam kết trong các FTA ASEAN+1, trong đó có việc rà soát Hiệp định AANZFTA giai đoạn hai và tích cực thực hiện các chương trình làm việc/hợp tác với các đối tác khác của ASEAN. Trong năm 2018, Việt Nam cũng sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế CLMV lần thứ 10 được tổ chức bên lề Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tại Xin-ga-po.
Theo số liệu của Bộ Công thương, trong thời điểm sáu tháng đầu năm 2018, mức độ tận dụng C/O ưu đãi trong xuất khẩu của các DN Việt Nam đối với các FTA ASEAN và ASEAN + ở mức độ trung bình với Trung Quốc (23%), Nhật Bản (29%), mức độ khá với Ô-xtrây-li-a - Niu Di-lân (30%), ASEAN (33%), Hàn Quốc (33%) và ở mức độ tốt với Ấn Ðộ (44%). Ở trong nước, các DN FDI và các tập đoàn lớn có xu hướng vận dụng ưu đãi tốt hơn DN Việt Nam, DN vừa và nhỏ. Xét từ góc độ ngành, các ngành dệt may, da giày, cơ khí, nông sản chế biến vận dụng ưu đãi tương đối tốt để xuất khẩu.
Quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam đã được triển khai hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, để tận dụng tốt các cơ hội của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025 và bảo đảm Việt Nam có thể hội nhập một cách chủ động, tích cực và phù hợp lợi ích của cộng đồng DN trong quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế, khai thác tốt hơn các ưu đãi trong các FTA trong khuôn khổ ASEAN, các DN Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và nâng cao nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia các FTA. Các bộ, ngành trong hội nhập kinh tế ASEAN cần nâng cao hiệu quả công tác điều phối, phối hợp; cải tiến cơ chế tham gia các cuộc họp cấp kỹ thuật trong ASEAN để tiết kiệm nguồn lực và ngân sách; cũng như xác định chủ trương về vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt trong đàm phán các FTA trong giai đoạn từ năm 2018 trở đi.
TRẦN TUẤN ANH
Ủy viên Trung ương Ðảng, Bộ trưởng Công thương

Ngoại giao Việt Nam đóng góp vào thành tựu chung của đất nước

Thứ Bảy, 18/08/2018, 03:29:18
LTS - Ngày 17-8, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 kết thúc thành công sau năm ngày làm việc tại Hà Nội. Nhân dịp này, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao BÙI THANH SƠN đã trả lời phỏng vấn báo chí về kết quả Hội nghị. Chúng tôi xin giới thiệu nội dung bài trả lời phỏng vấn.
Phóng viên: Thưa Thứ trưởng, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 là một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của ngành ngoại giao. Xin Thứ trưởng cho biết ý nghĩa và những kết quả quan trọng của Hội nghị lần này?
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: Năm nay là năm thứ 73 thành lập ngành ngoại giao từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là nền ngoại giao hiện đại, nền ngoại giao do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 được tổ chức đúng vào dịp giữa nhiệm kỳ của Đại hội lần thứ XII của Đảng. Với thời điểm và mốc lịch sử đó, Hội nghị đặt ra mục tiêu xem xét, đánh giá lại diễn biến tình hình thế giới, khu vực và trong nước trong hơn hai năm qua, kể từ khi thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XII. Đồng thời rà soát lại những biến đổi, diễn biến rất nhanh của tình hình thế giới và khu vực hiện nay tác động đến việc triển khai đường lối đối ngoại, việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển, nâng cao vị thế đất nước trong thời gian qua.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị đặt ra mục tiêu phải tìm được những biện pháp, chính sách để hoàn thành thắng lợi đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra, cũng như những nhiệm vụ đặt ra cho ngành ngoại giao từ sau Đại hội Đảng lần thứ XII và sau Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 năm 2016. Những kết quả đạt được trong hơn hai năm qua được các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước đánh giá cao, coi những thành tựu này là một điểm sáng, đóng góp vào thành tựu chung của đất nước trong việc thực hiện đường lối đối ngoại nói riêng và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nói chung.
Phóng viên: Hội nghị đã xác định những trọng tâm của ngành ngoại giao trong thời gian tới như thế nào để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII?
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: Đây là dấu mốc lịch sử của Hội nghị lần thứ 30 với sự tham gia rất đông đảo của hơn 700 đại biểu, nhất là của tất cả trưởng cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài và các cán bộ nhân viên ngoại giao. Với hình thức sáng tạo, chủ động, chúng tôi đã tổ chức nhiều phiên làm việc khác nhau để tăng cường sự phối hợp, cộng tác rất chặt chẽ giữa các bộ, ngành, cơ quan tham gia công tác đối ngoại phục vụ phát triển. Đồng thời, chúng tôi cũng tổ chức những phiên họp khác nhau để lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, các địa phương tham gia vào công tác hội nhập quốc tế. Ngoại giao đang tập trung vào sự nghiệp ngoại giao phục vụ phát triển. Với tinh thần đó, Hội nghị lần này đã bàn bạc rất kỹ về tình hình quốc tế và khu vực, đặt ra một số trọng tâm công tác trong thời gian tới.
Một là, trong bối cảnh tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp hiện nay, ngoại giao Việt Nam phải đi đầu, đóng góp tích cực vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định đất nước, phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực ở bên ngoài để phục vụ tốt nhất cho sự phát triển đất nước.
Hai là, trong bối cảnh thế giới biến động nhanh và phức tạp, công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo đóng góp cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội là rất quan trọng; phải có những ý kiến đóng góp xác đáng, khả thi nhất tham mưu cho việc hoạch định chính sách và triển khai hoạt động đối ngoại trong thời gian tới.
Ba là, ngoại giao được xác định là lĩnh vực được triển khai mạnh mẽ, nhất là ngoại giao kinh tế để phục vụ cho phát triển đất nước. Tại Phiên họp toàn thể do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp chủ trì, Thủ tướng đã chỉ đạo rất cụ thể về ngoại giao kinh tế và ngoại giao phục vụ phát triển; trong đó nhấn mạnh hai điểm. Một là, ngoại giao chuyển sang hướng lấy người dân và doanh nghiệp làm trọng tâm, làm đối tượng phục vụ trong quá trình phát triển của đất nước. Hai là, phải kết hợp được tất cả các kênh đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân, ngoại giao Nhà nước với quốc phòng, an ninh, các lực lượng trong đối ngoại phải tạo ra được sức mạnh tổng hợp nhất để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ sự phát triển của đất nước trong thời gian tới.
Ngành ngoại giao cũng triển khai đồng bộ các hoạt động ngoại giao văn hóa, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân, công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại. Đây là những lĩnh vực rất quan trọng để đưa hoạt động đối ngoại lớn của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân, qua đó tranh thủ sự đồng thuận, hợp tác của nhân dân, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đây là một yêu cầu rất quan trọng của công tác đối ngoại trong thời gian tới cũng như trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Công tác bảo hộ công dân, tranh thủ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong việc gắn bó chặt chẽ với quê hương, Tổ quốc, không chỉ đóng góp vào sự phát triển của mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các đối tác mà còn đóng góp trực tiếp vào quá trình phát triển của đất nước trong thời gian tới.
Bộ Ngoại giao đưa ra chương trình làm việc cụ thể nhằm kiện toàn, xây dựng tổ chức bộ máy Bộ Ngoại giao trong thời gian tới theo hướng vừa tinh gọn, hiệu quả, vừa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Bên cạnh đó, phải xây dựng được bộ máy nhân sự từ khâu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng. Việc sử dụng cán bộ đều cần lên kế hoạch cụ thể để có đội ngũ cán bộ ngoại giao tốt nhất, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, nhằm bảo đảm xây dựng được một nền ngoại giao vừa chính quy, vừa chuyên nghiệp; đồng thời từng bước hiện đại, phục vụ cho việc tuyên truyền đường lối đối ngoại, quảng bá đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè thế giới. Bộ Ngoại giao cần xây dựng cơ sở vật chất của cơ quan đại diện ở nước ngoài sánh tầm với một đất nước Việt Nam với hơn 100 triệu dân, đang phát triển mạnh mẽ, có vị thế, uy tín trên trường quốc tế.
Phóng viên: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, Thứ trưởng có thể cho biết “Ngoại giao phục vụ phát triển” sẽ đóng góp như thế nào vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước?
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: Trong khuôn khổ Hội nghị đã diễn ra Phiên họp toàn thể do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp chủ trì có chủ đề “Đẩy mạnh ngoại giao phục vụ phát triển trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng”. Trước đó, Bộ Ngoại giao cũng tổ chức một phiên họp riêng với trên 400 doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam để lấy thêm ý kiến. Tựu trung lại, ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển hay ngoại giao phục vụ phát triển, cả hai khía cạnh này Bộ Ngoại giao đều đang trong quá trình định hình. Việc triển khai các hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển được thực hiện từ lâu nhưng đến nay ngày càng bài bản chính quy, đặc biệt theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ từ Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, tiếp đó là Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, tập trung vào một số việc Bộ Ngoại giao đã và đang thực hiện.
Một là, công tác nghiên cứu, tham mưu và thông tin cập nhật đến với cộng đồng doanh nghiệp về tình hình thị trường của các nước trên thế giới. Với lợi thế của ngành ngoại giao là có cơ quan đại diện trên hầu hết các quốc gia, những đơn vị này có thể thông tin cụ thể về diễn biến thị trường, kinh tế, chính trị, an ninh, xã hội, tác động đến việc hợp tác về kinh tế giữa ta và các đối tác. Đây là điều quan trọng, cũng là mong muốn của cộng đồng doanh nghiệp. Bộ Ngoại giao sẽ tập trung vào lĩnh vực này.
Hai là, Bộ Ngoại giao đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, người dân để đột phá vào những thị trường mà các doanh nghiệp còn khó khăn. Với ưu thế của các cơ quan đại diện, nhất là, những đại sứ cùng các tham tán thương mại có thể tiếp cận được những nhân vật khác nhau của các nước, hiểu rõ về địa bàn đó nên có thể tham mưu, hỗ trợ doanh nghiệp Việt tiến vào các thị trường trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng như hiện nay, thị trường được mở rộng ở khắp nơi trên thế giới. Chúng ta không chỉ đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do để tiến vào các thị trường mà còn tham mưu, cố vấn giúp doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường một cách thuận lợi.
Ba là, Bộ Ngoại giao nhận thấy, các đề xuất của doanh nghiệp rất hữu ích. Bằng việc đồng hành với doanh nghiệp, Bộ Ngoại giao sẽ có những công trình nghiên cứu, khảo sát thông tin, bảng đánh giá về từng thị trường nhằm cung cấp cho cộng đồng doanh nghiệp. Hiện nay, Bộ Ngoại giao đang thực hiện các bản tin kinh tế hằng ngày, hằng tuần, tới đây là những bảng thống kê, khảo sát về các thị trường khác nhau để cung cấp cho cộng đồng doanh nghiệp.
Hiện nay, Bộ Ngoại giao đã chỉ đạo các cơ quan đại diện thực hiện kế hoạch hỗ trợ rất cụ thể. Thí dụ, Tập đoàn công nghiệp Viễn thông quân đội Viettel khi vươn ra 10 thị trường khác nhau đều có sự hỗ trợ, đồng hành quyết liệt của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Các doanh nghiệp khác như Vietjet Air, TH True Milk trong quá trình vươn ra thị trường nước ngoài cũng đều có sự hỗ trợ và hoạt động của họ tại các thị trường này hiện rất thành công. Điều này tạo được niềm tin, sự phấn khởi cho các cơ quan đại diện, từ đó định hình tốt hơn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc hỗ trợ, đồng hành cùng Bộ Ngoại giao, cả nước để bảo đảm quá trình hội nhập quốc tế của đất nước thành công.

Việt Nam đạt thành tựu nổi bật, tích cực phát triển Cộng đồng kinh tế ASEAN

13:37 16/08/2018
Kể từ khi tham gia vào Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996 đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng xấp xỉ 7,7 lần. Trong đó xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào ASEAN tăng gần 12,4 lần (từ 1,6 tỷ USD năm 1996 lên 19,9 tỷ USD).
Sau 51 năm thành lập, cộng đồng ASEAN ngày càng trở nên lớn mạnh và được coi là một trong những khu vực năng động nhất châu Á. Trong quá trình xây dựng và phát triển đó, là một quốc gia thành viên, Việt Nam vẫn luôn tích cực đóng góp vào nỗ lực chung, giúp thắt chặt tình đoàn kết nội khối và nâng tầm vị thế của ASEAN trên trường thế giới.
Tỉ lệ xóa bỏ thuế quan Việt Nam – ASEAN cao kỷ lục
Việt Nam đóng góp tích cực vào trụ cột kinh tế của cộng đồng ASEAN. Ảnh: congthuong.vn 
Theo ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công thương, quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam đã được triển khai hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua. So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996 cho đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng xấp xỉ 7,7 lần, (từ 5,91 tỷ USD năm 1996 lên 45,23 tỷ USD vào tháng 11-2017). Trong đó xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào ASEAN tăng gần 12,4 lần (từ 1,6 tỷ USD năm 1996 lên 19,9 tỷ USD).
Tính tới hết tháng 6 - 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 12,2 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 15,9 tỷ USD.
Đặc biệt, tính đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 98%. Như vậy, trong số 10 hiệp định tự do thương mại (FTA) mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội khối ASEAN (AFTA) có tỷ lệ xoá bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ trình thực hiện là 19 năm (một số ít mặt hàng có lộ trình là 25 năm).
Cần khai thác tối đa ưu đãi FTA trong khuôn khổ ASEAN
Để tận dụng tốt các cơ hội của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025 và để đảm bảo việc hội nhập một cách chủ động, tích cực và phù hợp với lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình cạnh khu vực và quốc tế, ông Trần Tuấn Anh cho rằng, Việt Nam cần khai thác tốt hơn các ưu đãi trong các FTA trong khuôn khổ ASEAN; các doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia các FTA.
Năm 2020, Việt Nam sẽ đảm nhiệm cương vị chủ tịch ASEAN. 
Ngoài ra, các Bộ, ngành trong hội nhập kinh tế ASEAN cần nâng cao hiệu quả công tác điều phối, phối hợp; cải tiến cơ chế tham gia các cuộc họp cấp kỹ thuật trong ASEAN để tiết kiệm nguồn lực và ngân sách; cũng như xác định chủ trương về vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt trong đàm phán các FTA trong giai đoạn từ năm 2018.
Nhằm chuẩn bị cho năm 2020 khi Việt Nam là nước Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ phải tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN khác triển khai các kế hoạch hành động chiến lược đến năm 2025; rà soát, thực thi các cam kết trong các FTA ASEAN +1 và tích cực thực hiện các chương trình làm việc/hợp tác với các đối tác khác của ASEAN.
Việt Nam cũng đồng thời cùng các bên thống nhất các nội dung còn vướng mắc trên cơ sở đảm bảo Hiệp định đối tác toàn diện kinh tế khu vực (RCEP) mang lại kết quả cân bằng về lợi ích, có tính đến sự chênh lệch về trình độ phát triển của tất cả các nước; đề nghị các nước đối tác của ASEAN điều chỉnh tham vọng xuống mức khả thi cho tất cả các bên nhằm kết thúc đàm phán hiệp định này trong năm 2018.
Năm 2018 là thời điểm kỷ niệm 23 năm Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN (28-7-1995) và 51 năm tổ chức này được thành lập và không ngừng hợp tác, phát triển để hình thành nên Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.

Hiện tại, ASEAN bao gồm 10 thành viên trong khu vực Đông Nam Á, là một thị trường đứng thứ 3 Châu Á với hơn 650 nghìn dân, chiếm 8,59% tổng dân số thế giới, GDP bình quân đầu người đạt 4.305 USD. Dự kiến con số này sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 đưa ASEAN thành cộng đồng kinh tế đứng thứ 7 trên thế giới, với tổng GDP là 2.766 tỷ USD. 

Tiên An

Việt Nam: 'Con hổ' kinh tế mới nhất của châu Á

Hồng Hải - 09:08, 15/08/2018

Những thành tựu rực rỡ về tăng trưởng kinh tế thời gian gần đây đã giúp Việt Nam được nhận định là "con hổ" kinh tế đang nổi lên mạnh mẽ tại khu vực châu Á.


Việt Nam: 'Con hổ' kinh tế mới nhất của châu Á
Xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến dài thời gian gần đây. Ảnh: VGP
Trong những thập niên 1970, 1980, các nền kinh tế được xem là "con hổ" của châu Á bao gồm Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc và Hong Kong. Danh hiệu này sau đó đã được truyền cho thế hệ sau với những cái tên Thái Lan, Malaysia, Indonesia và gần hơn là Ấn Độ.
Trong bình luận kinh tế hàng tuần của Ngân hàng Trung ương Qatar (QNB) được đưa ra mới đây, Việt Nam được đánh giá là "con hổ" mới nhất của châu Á nhờ vào những dữ liệu cho thấy một nền kinh tế đang bùng nổ và phát triển gần như nhanh nhất thế giới trong năm nay. 
Một loạt chỉ số đang cho thấy sự đi lên mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam. GDP tăng trưởng 7,1% trong 6 tháng đầu năm 2018, mức tăng cao nhất kể từ năm 2011. Lĩnh vực sản xuất gia tăng với tốc độ 13,1%, xây dựng đóng vai trò hỗ trợ mạnh với tốc độ tăng 7,9% so với cùng kỳ.
Theo các nhà phân tích của QNB, tăng trưởng sản xuất đã kéo theo xuất khẩu tăng vọt. Nửa đầu năm 2018, xuất khẩu của Việt Nam tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước, vượt mức 17% của cả năm 2017.
Theo nhận định của QNB, thành công của công nghiệp chế tạo và xuất khẩu xuất phát từ khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực như may mặc, giày dép và đặc biệt là điện tử. Ước tính rằng hiện nay cứ 10 điện thoại thông minh trên thế giới thì có 1 chiếc được sản xuất tại Việt Nam. 6 tháng đầu năm 2018, khoảng 13 tỷ USD dòng vốn FDI đã chảy vào Việt Nam.
Sự thành công của kinh tế Việt Nam càng đáng chú ý hơn khi diễn ra giữa thời điểm nhiều nền kinh tế đang phát triển khác phải vật lộn để bắt kịp với sự thành công của những "con hổ" châu Á trước đây như Singapore hay Hàn Quốc mà vẫn phải đảm bảo tăng trưởng bền vững của chế tạo và xuất khẩu.
Ví dụ, xuất khẩu của Ấn Độ đã vấp phải nhiều khó khăn trong những năm gần đây dù cho các khía cạnh kinh tế khác vẫn sôi động.
Nền tảng để thành công của Việt Nam rất rõ ràng: nhân khẩu học thuận lợi, mức lương thấp, ổn định chính trị, vị trí địa lý, sự tiệm cận với các chuỗi cung ứng lớn toàn cầu, đặc biệt trong ngành điện tử.
Tuy vậy, những yếu tố này chỉ giải thích một phần thành công của Việt Nam. Nghiên cứu gần đây từ Viện Brookings (Mỹ) nhấn mạnh khả năng xây dựng trên những nền tảng vững chắc thông qua các chính sách chính là điều giúp Việt Nam khác biệt.
Có ba yếu tố đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, trong khi nhiều người phương Tây đang đặt ra câu hỏi về lợi ích của thương mại tự do, Việt Nam đã liên tục theo đuổi tự do hóa thương mại ở cả đa phương và song phương. Các hiệp định thương mại đã giúp giảm đáng kể thuế quan mà xuất khẩu phải đối mặt, giúp Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và thúc đẩy hơn nữa các khoản đầu tư từ FDI.
Thứ hai, sự đầu tư ấn tượng vào vốn nhân lực thông qua giáo dục.
Thứ ba, đầu tư vào nguồn nhân lực được hỗ trợ bởi tiến bộ trong cải thiện môi trường kinh doanh. Việt Nam đã liên tục gia tăng thứ hạng trên bảng xếp hạng chỉ số cạnh tranh cũng như các khảo sát về kinh doanh.
Tuy vậy, bản chất của sự thành công đang mang lại những lỗ hổng và thách thức trong tương lai.
FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dệt may và điện tử, tạo ra các công việc có ít kỹ năng với mức lương khá thấp và hầu như không gia tăng giá trị. Điều này khiến Việt Nam sẽ bị tổn thương trong chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc trong ngắn hạn, giống như nhiều nền kinh tế châu Á khác tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu điện tử như Hàn Quốc, Đài Loan.
Về lâu dài, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam sẽ nhạt dần khi mức lương và mức sống được cải thiện.
Những động lực phát triển kinh tế mới sẽ phải được tìm ra để đảm bảo "con hổ" kinh tế mới của châu Á không rơi vào nguy cơ tuyệt chủng trong vài năm tới.

Công tác đối ngoại là điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, từ sau Đại hội lần thứ XII của Đảng, tình hình thế giới và trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng có nhiều vấn đề mới nảy sinh, khó khăn hơn trước



Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP
Tổng Bí thư khẳng định, với sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, công tác đối ngoại trong gần 3 năm qua, đặc biệt trong năm 2017, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, trở thành một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước ta, nổi bật thể hiện ở những khía cạnh:
Công tác đối ngoại đã đóng góp rất quan trọng vào việc duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước những biến động nhiều mặt, rất phức tạp trên thế giới và khu vực, những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh, những tác động tiêu cực từ bên ngoài, chúng ta đã tiếp tục có những quyết sách đúng đắn, có bước đi phù hợp để phục vụ phát triển kinh tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Việt Nam đã chủ động tích cực vận động thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những bất đồng và những vấn đề tồn tại liên quan đến phân định ranh giới biển, vừa bảo vệ được quyền chủ quyền, quyền tài phán của ta, đồng thời cùng các nước khác tiến hành công tác phân giới, cắm mốc, mở các cửa khẩu mới; quản lý đường biên giới và các hoạt động hợp tác xuyên biên giới, làm cho các đường biên giới trên bộ vừa là đường biên giới hòa bình, hữu nghị vừa là đường biên giới phát triển.
Công tác đối ngoại đã phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại. Từ năm 2016 đến nay, tăng trưởng kinh tế luôn đạt cao hơn mức bình quân của giai đoạn 2011-2015, các chỉ số kinh tế vĩ mô đều tích cực, nhất là đầu tư nước ngoài và xuất nhập khẩu.
Đáng chú ý, mặc dù xu hướng bảo hộ nổi lên ở nhiều nơi trên thế giới, kim ngạch thương mại và thu hút vốn đầu tư, du lịch từ các đối tác chủ chốt năm sau vẫn tăng hơn năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2017 đạt gần 36 tỷ USD, tăng 44,4 %, cao nhất trong 10 năm qua, trong đó vốn giải ngân đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016.
Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt mức kỷ lục, hơn 13 triệu người.
Đến nay đã có tổng cộng 71 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã ký kết 13 Hiệp định thương mại tự do, trong đó có 10 Hiệp định đã có hiệu lực. Hội nhập kinh tế tiếp tục tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế nước ta.
Công tác đối ngoại tiếp tục góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đưa quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là đối tác ưu tiên, quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững; quan hệ với các nước lớn tiếp tục được củng cố và thúc đẩy hài hòa, tranh thủ được các yếu tố tích cực, hạn chế được những bất đồng để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của quốc gia.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập đối tác chiến lược với 16 quốc gia, đối tác toàn diện với 11 quốc gia và quan hệ chiến lược đặc biệt với Lào và Campuchia. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện tiếp tục được thúc đẩy phát triển, phát huy được các mặt tích cực.
Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển, an ninh của đất nước. Cụ thể hóa và đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào chiều sâu, thực chất, tạo sự đan xen, gắn kết giữa lợi ích của ta với các nước.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên mọi mặt, tiếp tục phát huy vai trò tích cực tại các thể chế khu vực và toàn cầu, trong đó nổi bật là đã tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết, hợp tác và tự cường.
Đặc biệt, Việt Nam đã tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2017, đã tranh thủ tốt vị trí nước chủ nhà, khẳng định được vai trò và khả năng của Việt Nam trong việc xử lý những vấn đề quốc tế và khu vực.
Chủ động triển khai chiến lược đối ngoại về quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia; khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Công tác bảo hộ công dân, ngư dân tiếp tục được quan tâm, công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại, ngoại giao văn hóa được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Chúng ta đã chủ động, kiên quyết đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện tốt, ngày càng có nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.
Công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai khá đồng bộ, chặt chẽ và đạt nhiều kết quả quan trọng…
Những kết quả nêu trên đã khẳng định tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đại hội 12 và các chủ trương liên quan đến công tác đối ngoại của Đảng ta.
Chúng ta đã thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Trong các tình huống phức tạp, chúng ta đã kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, bám sát yêu cầu bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp với yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước.
Trong các chủ trương, bước đi, chúng ta luôn có được sự đồng thuận, ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Những kết quả đó có được là nhờ sự lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư, sự điều hành chủ động, linh hoạt của Nhà nước, sự vào cuộc và sự triển khai tích cực của tất cả các cấp, các địa phương, các ngành, nhất là ngành ngoại giao.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, những kết quả đó có sự đóng góp rất quan trọng của đội ngũ cán bộ đối ngoại nói chung và cán bộ Bộ Ngoại giao nói riêng.
Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư biểu dương, chúc mừng và cảm ơn những đóng góp to lớn, rất có ý nghĩa đó của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nói chung và của ngành ngoại giao nói riêng.
Theo Chinhphu.vn

Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới

2:13' 28/07/2018 (GMT+7)
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng, Việt Nam là nước có nhiều lợi thế, cũng như tiềm năng phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và hiện đã trở thành một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới.
Ngày 27/7, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Họp báo Hội nghị toàn quốc “Thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp”.
Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng, nông nghiệp là lĩnh vực đặc biệt quan trọng, tạo sự ổn định xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người nông dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, Việt Nam là nước có nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và trở thành một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới.
Hàng nông sản của Việt Nam gồm các mặt hàng truyền thống như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, rau quả và các mặt hàng thủy sản như cá tra, cá ba sa, cá ngừ, tôm, mực... là những mặt hàng có lợi thế,nhiều tiềm năng xuất khẩu sang thị trường các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Singapore, Tiểu các vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), thị trường châu Âu và châu Mỹ...
Dẫn chứng về vấn đề này, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, năm 2017, thủy sản là ngành có giá trị xuất khẩu cao nhất, đạt 8,3 tỷ USD, tiếp đến là hạt điều với 3,516 tỷ USD, rau quả đạt 3,502 tỷ USD, cà phê với 3,24 tỷ USD, gạo đạt 2,6 tỷ USD, hạt tiêu đạt 1,1 tỷ USD, sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 1,03 tỷ USD…

Để đạt được những thành tựu đó, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tính hết quý II/2018, ước tính cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chiếm khoảng 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước.
Thứ trưởng Vũ Đại Thắng phát biểu tại buổi Họp báo
Thứ trưởng Vũ Đại Thắng phát biểu tại buổi Họp báo
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chiếm 92,35%, tiếp đến là doanh nghiệp có quy mô lớn với 5,59% và doanh nghiệp có quy mô vừa với 2,06%. Đầu tư vào nông nghiệp đã tạo ra hơn 4,5 triệu việc làm, chiếm 32,5% lao động của toàn bộ doanh nghiệp.
Thứ trưởng Vũ Đại Thắng cho biết, các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp có đặc thù là phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên như thiên tai, rủi ro dịch bệnh dẫn đến đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chịu rất nhiều rủi ro so với các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn phản ánh gặp khó khăn ở một số vấn đề chính như: quỹ đất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp; ngành công nghiệp cơ khí hỗ trợ cho nông nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế. Nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong nông nghiệp còn bất hợp lý. Hiệu quả của hầu hết các loại hình tổ chức sản xuất, các ngành, các lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung chưa cao. Ứng dụng khoa học và công nghệ, liên kết chuỗi giá trị sản xuất trong nông nghiệp còn rất hạn chế, mới chỉ ở bước đầu phát triển…
"Với mục tiêu tìm giải pháp hiệu quả cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là mở đường cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn nữa vào lĩnh vực trọng yếu này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ, cơ quan liên quan tổ chức Hội nghị Toàn quốc về thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp", Thứ trưởng Vũ Đại Thắng cho hay.
Cắt giảm điều kiện kinh doanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp
Theo đại diện Cục Phát triển Doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vừa qua Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Trong đó, nổi bật có ba Nghị định gồm: Nghị định 61/2010/NĐ-CP chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Cũng theo đại diện Cục Phát triển doanh nghiệp, hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tiến hành rà soát, cắt giảm hơn 50% điều kiện đầu tư kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp. Đây là giải pháp quan trọng giúp thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội nghị Toàn quốc về thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp sẽ là dịp để Thủ tướng Chính phủ cùng các cơ quan bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nông nghiệp và các hiệp hội ngành nghề cùng nhìn lại, đánh giá tình hình đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp về các kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân và đề xuất, giải pháp thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả hơn trong thời đại mới.
Hội nghị nhằm hướng tới các mục tiêu: Thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sâu sắc đối với lĩnh việc nông nghiệp Việt Nam, lĩnh vực còn nhiều dư địa để phát triển; Truyền tải những điểm mới của Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tới cộng đồng doanh nghiệp; Lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, chuyên gia, hiệp hội về những khó khăn, vướng mắc và những kiến nghị đối với Chính phủ; Trả lời, đối thoại giữa các Bộ trưởng/Thành viên Chính phủ với các doanh nghiệp, Hiệp hội và Chuyên gia; Thủ tướng sẽ trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và đề ra hành động của Chính phủ thông qua Nghị quyết của Chính phủ nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Hội nghị toàn quốc "Thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp" dự kiến sẽ tổ chức ngày 30/7/2018, với sự tham gia của khoảng 600 đại biểu gồm lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan trung ương, lãnh đạo các địa phương, đại diện các tổ chức, hiệp hội…
Minh Ngọc

Ngân hàng Thế giới ghi nhận thành tựu giáo dục Việt Nam

Thứ Ba, 10/7/2018 17:07
Hiệu quả đầu tư cho giáo dục của Việt Nam được thể hiện rõ qua những thành công trong đổi mới giáo dục phổ thông
Hiệu quả đầu tư cho giáo dục của Việt Nam được thể hiện rõ qua những thành công trong đổi mới giáo dục phổ thông
GD&TĐ - Nhóm chuyên gia GD của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa thực hiện ghi chép về “Nguồn vốn nhân lực Việt Nam: Thành tựu GD đáng ghi nhận và những thách thức trong tương lai”. Ghi nhận một số yếu tố tác động đến các thành tựu, đặc biệt là các chính sách đúng đắn về GD và sự triển khai hiệu quả các chính sách này. Văn bản cũng đưa ra các thách thức cơ bản mà Việt Nam phải đối mặt trong tương lai.
Thành công từ cam kết mạnh mẽ của Chính phủ
Các nhà hoạch định chính sách GD trên khắp thế giới đều ngạc nhiên trước những thành công về GD của Việt Nam trong tiếp cận GD cơ bản và kết quả học tập. Mặc dù mức độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn tương đối thấp, nhưng học sinh Việt Nam vẫn có thành tích vượt trội so với học sinh ở các nước OECD
 WB nhấn mạnh tác động mạnh mẽ từ các cam kết mạnh mẽ và liên tục của Chính phủ Việt Nam đối với phát triển GD, với cơ chế giải trình trách nhiệm cao và quyền tự chủ cho các trường học, được hỗ trợ hệ thống báo cáo và giám sát nội bộ và từ bên ngoài mạnh mẽ, có tác dụng thúc đẩy việc mở rộng và cải thiện hệ thống GD một cách liên tục. Việc chi tiêu ngân sách vào đầu tư cho GD cơ bản ở mức tương đối cao, với đầu vào căn bản và sự công bằng. 
trong các kỳ đánh giá quốc tế. Bí quyết của thành công này là gì? Dựa trên kết quả thực tế và các nghiên cứu về GD cơ bản ở Việt Nam, nhóm chuyên gia WB, đứng đầu là bà Sachiko Kataoka đã soạn thảo một ghi chép về những thành tựu đáng ghi nhận của GD cơ bản Việt Nam và những thách thức trong tương lai.
Ghi chép của WB nhấn mạnh tác động mạnh mẽ từ các cam kết mạnh mẽ và liên tục của Chính phủ Việt Nam đối với phát triển GD, với cơ chế giải trình trách nhiệm cao và quyền tự chủ cho các trường học, được hỗ trợ hệ thống báo cáo và giám sát nội bộ và từ bên ngoài mạnh mẽ, có tác dụng thúc đẩy việc mở rộng và cải thiện hệ thống GD một cách liên tục. Việc chi tiêu ngân sách vào đầu tư cho GD cơ bản ở mức tương đối cao, với đầu vào căn bản và sự công bằng. Việt Nam luôn ưu tiên đầu tư vào GD văn hóa phổ thông và cơ bản, chi tiêu hướng tới sự công bằng. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào kết quả đầu ra tương đối cao và đồng đều của GD Việt Nam.
Mặt khác, Chính phủ Việt Nam có các chính sách thu hút và hỗ trợ giáo viên đạt chuẩn, thông qua các ưu đãi và liên tục phát triển chuyên môn cho giáo viên. Giáo viên nhận trợ cấp và một số chế độ ưu đãi. Học viên tại các cơ sở đào tạo giáo viên được miễn học phí và ưu tiên học bổng. Ngược lại, giáo viên cũng thường xuyên đóng góp các đánh giá và cung cấp phản hồi mang tính xây dựng.
Mỗi ngày đến trường là một ngày vui 
Đẩy mạnh cơ hội tiếp cận GD, sử dụng chiến lược đánh giá hiệu quả
Một số khía cạnh văn hóa cũng tác động mạnh mẽ đến thành công của GD Việt Nam, chẳng hạn như truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo”, kỳ vọng của cha mẹ đối với con em, hay môi trường mang tính kỷ luật cao của giáo viên và học sinh
Việt Nam cũng đẩy mạnh cơ hội tiếp cận GD cho trẻ em, các khoản chi công cho trường mầm non giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phổ cập mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Để tăng cơ hội GD cho trẻ em, Chính phủ cũng đã huy động cộng đồng và khu vực tư nhân tham gia vào GD mầm non.
Ngoài ra, Việt Nam đã sử dụng chiến lược đánh giá một cách hiệu quả, đặc biệt là kết quả đánh giá học sinh trong các kỳ thi quốc tế và sử dụng kết quả này để cải thiện hệ thống. Ví dụ, để đáp ứng với kết quả PISA 2012, Việt Nam đã thay đổi khung pháp lý cho các kỳ thi quy mô lớn để đa dạng hóa các phương pháp thử nghiệm, cải thiện chất lượng và mở đường cho đánh giá dựa trên năng lực.
Một số khía cạnh văn hóa cũng tác động mạnh mẽ đến thành công của GD Việt Nam, chẳng hạn như truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo”, kỳ vọng của cha mẹ đối với con em, hay môi trường mang tính kỷ luật cao của giáo viên và học sinh. Ghi chép cũng cho rằng, trong khi một số các yếu tố làm nên sự thành công của GD Việt Nam thuộc về truyền thống văn hóa, khó có thể sao chép được, thì các quốc gia trên thế giới có thể học hỏi rất nhiều từ các quyết sách GD của Việt Nam.
 Những cô giáo tương lai
Cần giải quyết tốt những thách thức mới
Cùng với những đánh giá tích cực về thành công của GD cơ bản Việt Nam thời gian qua, ghi chép của WB cũng phân tích các thách thức mà hệ thống GD Việt Nam phải đối mặt.
Thứ nhất, tiếp cận GD trung học còn chưa cao và chưa công bằng. Các nhóm có hoàn cảnh khó khăn, bao gồm các nhóm dân tộc thiểu số, người dân ở các khu tái định cư, người dân thuộc các hộ nghèo, ở vùng sâu, vùng xa và người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận GD.
Thứ hai, mặc dù Chính phủ cam kết cải thiện chất lượng GD bằng cách tăng cường thực hành giảng dạy dựa trên năng lực và cải cách chương trình và sách giáo khoa, nhưng vẫn cần có những hướng dẫn rõ ràng và tạo thuận lợi cho giáo viên giảng dạy dựa trên năng lực.
Thứ ba, khi nền kinh tế của Việt Nam phát triển, cần đầu tư nhiều hơn vào trình độ học vấn cao hơn và học cả đời, giúp người học có khả năng tốt hơn trong việc chuyển biến các kiến thức và kỹ năng nền tảng thành những kiến thức và kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường lao động.
Ngoài ra, hệ thống GD đại học của Việt Nam chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng cần thiết cho lực lượng lao động; Việt Nam cũng chưa có chiến lược mạnh mẽ để khắc phục vấn đề này. Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được những điểm yếu này và cam kết khắc phục tiếp tục củng cố nguồn nhân lực, đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế.
Nhân dịp này, ngài Ousmane Dione, Giám đốc WB đã gửi thư chúc mừng Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ về thành tựu GD cơ bản của Việt Nam. Trong thư có đoạn: “Nhân dịp này, tôi muốn chúc mừng Bộ GD&ĐT, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo xuất sắc của ông, về những công việc mà Bộ đang thực thi nhằm giám sát việc triển khai các chương trình GD trên toàn quốc.

Các nhà thành lập chính sách GD thế giới rất bất ngờ về thành công của GD cơ bản Việt Nam, thể hiện qua thành tích cao tại các kỳ đánh giá PISA 2012 và PISA 2015, khi các em học sinh 15 tuổi của Việt Nam đã vượt qua nhiều đối thủ thuộc các nước OECD. Kinh nghiệm và các khả năng thực tiễn về cải cách chính sách GD của Việt Nam trong việc triển khai các chương trình GD đang được quan tâm cao độ, bằng chứng là nhiều nước đã đề nghị trao đổi kiến thức về vấn đề này”.
Kiều Trinh