Xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt”, nhiệm vụ thường xuyên, cốt lõi để Đảng có đủ uy tín, đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước. Đây là nguyên nhân của thành công.
|
Hơn 86 năm qua, từ khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm tròn một cách xuất sắc nhiệm vụ lịch sử mà dân tộc Việt Nam giao phó cho mình: Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc hùng mạnh hơn gấp bội. Kỳ tích được cả thế giới nể phục, đưa vị thế Việt Nam lên cao trên trường quốc tế.
Sau khi giải phóng đất nước, giành độc lập, tự do và thống nhất, bước vào giai đoạn xây dựng, bảo vệ và phát triển, Đảng đứng trước những nhiệm vụ mới, phức tạp, đầy khó khăn, thử thách. Kinh nghiệm hơn 40 năm qua đã chỉ cho chúng ta thấy, giành độc lập dân tộc là rất khó khăn, gian khổ, nhưng xây dựng đất nước thật sự độc lập, nhân dân được thật sự tự do và hạnh phúc còn khó khăn hơn vạn lần. Đặc biệt khi chúng ta đi vào phát triển đất nước trong lúc bối cảnh thế giới hết sức phức tạp, sự cạnh tranh kinh tế quyết liệt... Nếu có đường lối đi đúng sẽ có cơ hội, nếu không thì sẽ tụt hậu, bị đẩy lùi.
Giai đoạn mới đòi hỏi phải có tư duy mới, phải biết nhìn thẳng vào thực tế... mà quyết định đường lối, chính sách.
Đến năm 1986, hơn 10 năm sau ngày đất nước thống nhất, từ những bài học thực tiễn, Đảng ta đã “nhìn thẳng vào sự thật”, đề ra đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã đem lại cho nhân dân ta những thành tựu quan trọng, làm cho cuộc sống có rất nhiều thay đổi. Tuy nhiên, đường lối đổi mới đó chủ yếu ở một số mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, cho nên đổi mới chưa toàn diện, chưa đồng bộ. Đó là nguyên nhân của những yếu kém, chậm phát triển của chúng ta hiện nay.
Đảng lãnh đạo, trước hết bằng đường lối chính trị. Vì vậy, để xây dựng Đảng trước hết phải quan tâm đến xây dựng đường lối chính sách chính trị trong các lĩnh vực. Trong nhiều nghị quyết, Đảng nhấn mạnh phải nâng cao trình độ lý luận, đi sát vào thực tiễn để ngày càng hoàn chỉnh đường lối, chính sách, là hết sức đúng. Thí dụ cần phải làm rõ hơn nữa vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề kinh tế nhà nước là chủ đạo, vai trò sở hữu đất đai, v.v. Có làm rõ những điều trên thì mới có thể “hoàn thiện thể chế” phù hợp với tình hình hội nhập quốc tế. Trước hết phải nhận thức được là chúng ta ở trong thế giới toàn cầu hóa, chi phối bởi chủ nghĩa tư bản và mục tiêu trước mắt chúng ta là phải giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đó là yêu cầu của vận mệnh đất nước và cũng là cơ sở để nhân dân ta phấn đấu đi lên.
Trong xây dựng Đảng, việc xác định đường lối chính trị là quyết định, là vô cùng quan trọng. Nhưng là Đảng cầm quyền nên Đảng cũng phải là người xác định đường lối tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ để thực hiện đường lối của mình đề ra. Điều đó cuối cùng là quan trọng nhất và quyết định sự thành công hay thất bại của Đảng.
Hiện nay, có thể nói chúng ta đang ở giai đoạn có nhiều sự biến đổi, phức tạp cả về chính trị cũng như giá trị đạo đức xã hội, vấn đề tổ chức - cán bộ trong xây dựng Đảng càng phải đặc biệt nhấn mạnh.
Xét trong thực tế tình hình của đất nước, cũng thấy rõ một số thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được là nhờ sự cố gắng phấn đấu của những cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhưng những sai lầm, thất bại cũng do một số cán bộ, không phải nhỏ, tiêu cực, trong đó có cả cán bộ cấp cao, đã thiếu trách nhiệm, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Vì vậy theo tôi có thể nói mọi sự yếu kém, chậm phát triển trước hết là do chủ quan, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước còn nhiều mặt bất cập, thiếu hiệu lực. Đó là nguyên nhân của các nguyên nhân như nhiều cuộc tổng kết đã chỉ ra. Chính vì lý do đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đưa ra, và bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư sau Hội nghị đã được toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng rất mạnh mẽ. Nghị quyết đã đặt vấn đề phải chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu của cán bộ, đảng viên, loại trừ những cán bộ, đảng viên mất phẩm chất, thoái hóa về tư tưởng, về lối sống, chỉ nghĩ lợi ích cá nhân, không quan tâm lợi ích của nhân dân, của đất nước; phải chống “nhóm lợi ích”, “tư tưởng địa phương cục bộ”, “tư duy nhiệm kỳ” làm suy yếu Đảng, Nhà nước. Nghị quyết nêu việc đặc biệt phải coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược, chủ chốt, đầu ngành, v.v.
Rất tiếc, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm; so với yêu cầu đề ra và so với mong đợi của cán bộ, đảng viên cũng chưa thật sự đáp ứng như mong muốn và qua một số vụ việc đang xảy ra, càng thấy vấn đề chính sách cán bộ của Đảng còn nhiều điểm phải rà soát và tăng cường.
Hiện nay, Bộ Chính trị và Ban Tổ chức Trung ương đang rất quan tâm vấn đề này. Làm sao tổ chức Đảng, Nhà nước vừa gọn, vừa hiệu lực, các cán bộ, đặc biệt là cán bộ ở cấp chiến lược, chủ chốt, đầu ngành, đầu địa phương là những cán bộ lãnh đạo xứng đáng, không ngừng nâng cao trình độ và bản lĩnh, đồng thời phải loại bỏ những phần tử cơ hội, những cán bộ hư hỏng, làm hại đất nước, làm hại nhân dân? Trước hết phải có chính sách và kế hoạch cụ thể để thu hút nhân tài, mặt khác, phải ngăn chặn không cho những người không xứng đáng vào hàng ngũ của Đảng, vào bộ máy chính quyền, đặc biệt không để những người không xứng đáng vào những vị trí lãnh đạo. Ta phải trả lời câu hỏi rất bức thiết: Tại sao có tệ nạn chạy chức, chạy quyền? Phải chăng nguyên nhân chính là chạy theo lợi ích cá nhân, coi đồng tiền là trên hết. Lấy “tiền” để mua “quyền lực”, rồi từ “quyền lực” lại kiếm ra “tiền”.
Để làm được việc này, trước hết và trên hết, Đảng cần đặt vấn đề tăng cường công tác giáo dục đảng viên về đạo đức cách mạng, luôn luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết. Đồng thời về tổ chức, phải ngăn chặn cho được tệ nạn “chạy chức, chạy quyền” và cả “chạy biên chế”. Không cho phép mọi hành vi dùng các hình thức mua chuộc, “ưu ái” vô nguyên tắc như dư luận thường nói “nhất tiền tệ, nhì hậu duệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ”...
Việc đánh giá cán bộ hết sức quan trọng, tiêu chuẩn đức-tài phải rất rõ ràng, cụ thể, phải dựa trên thực tế, từ ý thức trách nhiệm đến kết quả công tác. Học vị, quá trình công tác chỉ để tham khảo, vấn đề đánh giá con người, lựa chọn cán bộ là cả vấn đề khoa học. Không phải anh đã là cấp ủy thì việc gì anh cũng có thể làm được. Cán bộ lãnh đạo phải tương đối toàn diện, cần có trình độ chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, đồng thời phải có trình độ chuyên môn cần thiết. Một nhà khoa học giỏi không có nghĩa là một nhà quản lý giỏi.
Một điểm quan trọng mà bấy lâu nay công tác tổ chức - cán bộ thiếu sót là một khi đã đề bạt một cán bộ thì dù họ không làm được việc hoặc vi phạm nhiều sai lầm, lại không có quy định phải “thay”, mà phải chờ hết nhiệm kỳ. Công việc của đất nước bộn bề, phức tạp nên có trường hợp việc bố trí vị trí việc làm chưa chính xác, không phát huy được tác dụng của cán bộ thì cần có quy định cho phép một cán bộ thấy mình không đảm trách công việc được giao xin từ chức một cách đàng hoàng và chuyển sang làm việc khác phù hợp hơn.
Việc lập quy hoạch cán bộ để chuẩn bị cho lớp kế cận là rất cần thiết. Việc lựa chọn cán bộ cần tiến hành một cách dân chủ, công khai, minh bạch. Có người nói làm như vậy có thể có sự ganh tị, kèn cựa nhau. Nếu có tình hình đó, chứng tỏ sự lựa chọn của tổ chức không chính xác và nếu có những người có hành động kèn cựa, ganh ghét nhau, đó là những cán bộ cần phải loại ra trước hết.
Cũng có ý kiến để lựa chọn cho chính xác nên cho họ trình bày dự kiến của mình nếu được đề bạt, coi như một cuộc sát hạch.
Dư luận nói chung cho rằng chủ trương “thi công chức” hiện nay làm rất hình thức, không có tác dụng chọn lọc cán bộ.
Cần rà soát lại quy trình chọn cán bộ. Đến nay, quy trình trên văn bản đặt ra khá chặt chẽ. Nhưng trong thực tế, một số cán bộ không đủ tiêu chuẩn vẫn qua được tất cả các khâu trong quy trình tổ chức đó. Đến khi có vấn đề thì trách nhiệm không rõ. Một cán bộ, nhất là cấp cao, không tốt lọt vào cơ quan lãnh đạo, thì sẽ làm hại cho công việc chung, làm mất uy tín của Đảng và lòng tin của nhân dân.
Và cuối cùng, nên nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống cơ quan làm công tác tổ chức - cán bộ của Đảng. Cán bộ làm công tác này cần được lựa chọn đặc biệt. Đây là cơ quan tham mưu của Đảng, là người “gác cổng” của Đảng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là lựa chọn cán bộ lãnh đạo của Đảng, đặc biệt ở các cấp cao, chủ chốt. Cán bộ làm công tác tổ chức không những cần trình độ chính trị vững, mà phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, trong sạch, công tâm. Ở đây cần chú ý chống tác động của “nhóm lợi ích”.
Nhưng đồng thời cũng đặt trách nhiệm về việc lựa chọn cán bộ, quản lý cán bộ đối với tất cả các đồng chí lãnh đạo Đảng, đặc biệt đồng chí đứng đầu đơn vị, đứng đầu ngành, địa phương. Đó là một nội dung về xây dựng Đảng tối quan trọng để bảo đảm Đảng được trong sạch, vững mạnh.
Nguyễn Thị Bình,
Nguyên Phó Chủ tịch nước-
|
Thursday, August 4, 2016
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh có tính cấp thiết hơn bao giờ
Bộ đội Biên phòng quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng về quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta. Trong đó, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là nội dung rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Đây là vấn đề được Đại hội XII của Đảng đặc biệt quan tâm.
![]() |
Trung tướng Hoàng Xuân Chiến phát biểu tại Hội nghị học tập, quán triệt, triển
khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. (Ảnh: bienphong.com.vn) |
Trên cơ sở đánh giá, dự báo khách quan, toàn diện tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”1. Đây là định hướng chiến lược đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung, Bộ đội Biên phòng nói riêng trong tình hình mới. Đồng thời, đó còn là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta nhằm hướng tới mục tiêu lâu dài là: xây dựng đường biên giới quốc gia hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Nhìn lại 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới, vùng biển được thực hiện nghiêm túc và đạt nhiều kết quả quan trọng. Nổi bật là, nhận thức của các cấp, ngành, địa phương biên giới, ven biển về công tác biên phòng từng bước được nâng lên. Việc phối hợp giữa Bộ đội Biên phòng với các lực lượng, địa phương trong tham mưu các chủ trương, đối sách cho Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ này có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ quan, đơn vị biên phòng các cấp thường xuyên được kiện toàn; điều chỉnh thế bố trí phù hợp; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Nhờ đó, chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển của quốc gia luôn được giữ vững, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực biên giới, hải đảo, phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển đất nước.
Tuy vậy, việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển trong những năm qua vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nổi lên là năng lực nắm, dự báo và xử lý tình hình có nơi còn lúng túng; công tác phối hợp trong tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ biên phòng chưa chặt chẽ, toàn diện; trình độ tư duy, kiến thức quân sự và khả năng trang bị, phương tiện của các đơn vị làm nhiệm vụ trên biển còn bất cập, v.v. Trong khi đó, dự báo tình hình thế giới, khu vực những năm tới, nhất là tình hình ở Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ khó lường. Hoạt động cài cắm, móc nối chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên các tuyến biên giới ngày càng tinh vi, xảo quyệt; vấn đề xâm canh, xâm cư, vượt biên trái pháp luật, buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội phạm ma túy có vũ trang có chiều hướng gia tăng. Trước thực tế đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, nòng cốt là Bộ đội Biên phòng cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Trên cơ sở đó, triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển; trong đó, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Trước hết, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ, các cấp, ngành và toàn dân về nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh, biên giới, vùng biển trong tình hình mới. Đây là nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Bộ đội Biên phòng. Đặc biệt, trong điều kiện nước ta có đường biên giới trên bộ, trên biển dài hàng nghìn ki-lô-mét, đi qua nhiều khu vực, địa bàn khác nhau, chủ yếu là vùng sâu, vùng xa, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn,… thì công tác này càng có ý nghĩa quan trọng. Để làm được điều đó, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững đường lối, quan điểm, chính sách về biên giới của Đảng và Nhà nước; nhiệm vụ công tác biên phòng cùng những thuận lợi và khó khăn đối với công tác quản lý, bảo vệ biên giới, vùng biển trong bối cảnh hội nhập. Đồng thời, chú trọng tuyên truyền, giáo dục bộ đội hiểu rõ âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thủ đoạn kích động của các thế lực thù địch, vấn đề biên giới, lãnh thổ cùng tư tưởng ly khai, tự trị,… hòng gây mất ổn định an ninh. Qua đó, nâng cao trách nhiệm, quyết tâm, tính chủ động, sáng tạo, quyết đoán và tinh thần cảnh giác của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, các cơ quan, đơn vị cần nghiên cứu, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành nội dung, hình thức cụ thể, thiết thực, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng đối tượng, địa bàn. Trong đó, tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới” và chủ trương tăng cường tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo,… bảo đảm cho bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ, năng lực toàn diện, tác phong chính quy, mẫu mực, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần phối hợp chặt chẽ với địa phương nơi địa bàn công tác, có nhiều hình thức tuyên truyền phù hợp, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm và sự đồng thuận của nhân dân trong tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác biên phòng. Theo đó, các đơn vị phải chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo tình hình biên giới, vùng biển; thấy rõ những thuận lợi, thách thức đặt ra; từ đó, đổi mới, phương thức theo hướng linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trên từng mặt công tác biên phòng, bảo đảm phù hợp với từng địa bàn, tuyến biên giới, vùng biển được giao. Đối với tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, cần tiếp tục tổ chức quản lý, bảo vệ theo 3 văn kiện pháp lý và các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước. Trong đó, chú trọng việc tuần tra, kiểm soát, nắm chắc tình hình (nội, ngoại biên), đấu tranh ngăn chặn các hoạt động tội phạm, xâm canh, xâm cư; đẩy mạnh đổi mới cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thông thoáng trong lưu thông biên giới. Trên tuyến biên giới Việt Nam - Lào, tích cực triển khai các văn kiện đã ký kết giữa hai nước sau tăng dày, tôn tạo mốc quốc giới và tổ chức quản lý, bảo vệ biên giới trên thực địa; có biện pháp giải quyết kịp thời, hiệu quả những vụ việc liên quan đến an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo, hoạt động móc nối xây dựng cơ sở ngầm và phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy. Trong quản lý, bảo vệ tuyến biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia, cần chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giải quyết các vấn đề còn tồn đọng để thúc đẩy tiến độ phân giới, cắm mốc giữa hai bên; đồng thời, chủ động xây dựng, điều chỉnh kế hoạch, phương án bảo vệ biên giới trong tình hình mới. Đối với tuyến biên giới biển, cùng với tăng cường năng lực thực thi pháp luật và hoạt động cứu hộ, cứu nạn cho các lực lượng trên từng vùng biển, cần đẩy mạnh triển khai Dự án Thực hiện thủ tục biên phòng điện tử cảng biển trong xuất nhập cảnh, bảo đảm văn minh, thuận tiện, thông thoáng, chặt chẽ, đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, các đơn vị biên phòng cần đổi mới phương thức tham gia xây dựng biên giới vững mạnh toàn diện, có chiều sâu, nhất là trong nắm tình hình địa bàn; đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ đường biên, cột mốc; tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh xã, phường biên giới, hải đảo.
Ba là, thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng vững mạnh, đủ sức làm nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Lãnh thổ quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm; trong đó, khu vực biên giới là “phên giậu” của đất nước. Bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; trong đó, Bộ đội Biên phòng giữ vai trò nòng cốt, chuyên trách. Vì thế, quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng vững mạnh là vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Trước hết, các đơn vị cần chủ động rà soát, củng cố, hoàn chỉnh cơ cấu lực lượng theo quy định của Bộ Quốc phòng, nhất là đối với các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu, các đồn, trạm biên phòng, bảo đảm hệ thống, tinh gọn, chính quy, hiện đại. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện; nâng cao năng lực nghiệp vụ biên phòng cho các đối tượng trong toàn lực lượng, đáp ứng sự phát triển của công tác biên phòng trong tình hình mới. Trong đó, cần tập trung đổi mới công tác huấn luyện chiến đấu, bảo đảm sát yêu cầu nhiệm vụ, đối tượng tác chiến, địa bàn hoạt động và tổ chức biên chế, trang bị; thực hiện “Năm huấn luyện điều lệnh, kỷ cương”, trình độ chính quy, sẵn sàng chiến đấu cao; đồng thời, coi trọng nâng cao trình độ kỹ năng nghiệp vụ, nhất là nghiệp vụ điều tra phản gián, phòng, chống tội phạm, quản lý xuất nhập cảnh, v.v. Mặt khác, cần tranh thủ phát huy mọi nguồn lực, tăng cường đầu tư trang bị, phương tiện hiện đại cho các đơn vị, nhất là lực lượng làm nhiệm vụ chiến đấu đặc thù, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Bốn là, tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp, ngành, lực lượng đẩy mạnh công tác đối ngoại biên phòng. Đây là vấn đề rất quan trọng, yêu cầu khách quan trong xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Các cơ quan, đơn vị cần nắm vững và vận dụng đúng đắn quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng vào hoạt động thực tiễn, bảo đảm kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại quốc phòng với đối ngoại biên phòng. Tiếp tục thực hiện tốt phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhằm giải quyết kịp thời, hiệu quả, tại chỗ các vấn đề nảy sinh trên biên giới, vùng biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc. Trước mắt, cần phát huy hiệu quả hoạt động của đại diện và lực lượng bảo vệ biên giới các nước trong phân giới, cắm mốc, giao lưu, tiếp xúc, củng cố lòng tin để cùng chung tay xây dựng biên giới bình yên, đồn, trạm biên phòng hữu nghị, vì sự ổn định và hạnh phúc của nhân dân hai bên biên giới. Về lâu dài, cần hướng tới việc hợp tác một cách sâu, rộng, thực chất với lực lượng bảo vệ biên giới các nước trên cả 3 cấp2 về cung cấp thông tin, trao đổi kinh nghiệm, phối hợp công tác, đào tạo cán bộ và trang bị, kỹ thuật biên phòng,… nhằm duy trì, giữ vững môi trường hòa bình, tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh ở khu vực biên giới, hải đảo.
Như vậy, dưới góc nhìn của công tác biên phòng, có thể thấy, thực hiện đồng bộ, triệt để những vấn đề nêu trên là biểu hiện sinh động trong việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào sự nghiệp quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Trung tướng, PGS, TS. HOÀNG XUÂN CHIẾN, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng
_______________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.
2 - Gồm: Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh và đồn biên phòng.
Subscribe to:
Posts (Atom)