Saturday, December 26, 2015

10 thành tựu nổi bật của ngành nông nghiệp giai đoạn 2010-2015

10 thành tựu nổi bật của ngành nông nghiệp giai đoạn 2010-2015


Những thành tựu của ngành nông nghiệp đạt được trong 70 năm qua rất to lớn, làm thay đổi vị thế của người nông dân từ những người làm thuê, nghèo đói sang làm chủ, có ruộng đất, được áp dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất hàng hóa ngày càng hiệu quả hơn.

  • 11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Bộ Canh nông, nay là Bộ NN&PTNT. Trải qua 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành nông nghiệp Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu rực rỡ.
Năm 2015 cũng là năm đầu tiên Thủ tướng Chính phủ có quyết định chọn ngày 14/11 hằng năm là "Ngày truyền thống ngành NN&PTNT Việt Nam" nhằm khẳng định vai trò của sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp của nước ta từ một nền sản xuất lạc hậu, năng suất, hiệu quả thấp, tự cung tự cấp đã chuyển mạnh sang một nền sản xuất hàng hóa, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và có nhiều mặt hàng chiếm vị thế cao trên thị trường quốc tế.
Nhân dịp này, Bộ NN&PTNT công bố 10 thành tựu nổi bật của ngành trong giai đoạn 2010-2015.
1. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào rộng khắp trong cả nước, được cả hệ thống chính trị và người dân đồng tình hưởng ứng. Với nhiều cách làm sáng tạo, nhiều nguồn lực đã được huy động để xây dựng nông thôn mới, nhờ đó diện mạo của nhiều vùng nông thôn nước ta đổi mới, đời sống tinh thần và vật chất của người dân được nâng lên. Đến cuối năm 2015 có khoảng 1.500 xã và 9 huyện, thị xã đạt chuẩn nông thôn mới.
2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt trên 30 tỉ USD vào năm 2014 là dấu ấn tăng trưởng ngoạn mục của ngành NN&PTNT trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp; thị trường xuất khẩu nông sản khó khăn, sức mua giảm… Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với 10 loại nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch hơn 1 tỉ USD/năm.
3. Hình ảnh những cán bộ kiểm ngư anh dũng đấu tranh trên biển đã khích lệ lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ biển đảo của Tổ quốc. Dù mới được thành lập (11/2012) nhưng Kiểm ngư Việt Nam đã khẳng định trọng trách lớn trong việc tham gia thực thi pháp luật trên biển, tích cực giúp đỡ và hỗ trợ cho ngư dân vươn khơi.
4. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp được triển khai thực hiện trên cơ sở phát huy lợi thế của cả nước và mỗi địa phương gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Bộ NN&PTNT đã phê duyệt 24 quy hoạch phục vụ tái cơ cấu. Trong đó có 17 quy hoạch trên phạm vi cả nước và 7 quy hoạch khu vực, vùng, địa bàn cụ thể… góp phần quan trọng duy trì, phát triển sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng của toàn ngành.
5. Giữ ổn định 3,8 triệu ha đất trồng lúa là chủ trương lớn trong nông nghiệp được Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo an ninh lương thực cũng như sinh kế của nông dân. Nhờ đó, lợi thế về cây lúa tiếp tục được phát huy và có nhiều chính sách mới ra đời nhằm hỗ trợ và nâng cao đời sống người trồng lúa.
6. Thông tư liên tịch số 14 về “kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính” trong ngành NN&PTNT đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức thuộc hệ thống, đảm bảo công tác chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến địa phương được thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính Nhà nước, cải cách công vụ của Chính phủ.
7. Hơn 2,7 tỉ USD huy động nguồn vốn ODA trong nông nghiệp, nông thôn là mức kỷ lục trong 5 năm qua. Từ nguồn vốn này, nhiều công trình thủy lợi, giao thông nông thôn… được xây dựng, nâng cấp, sửa chữa, qua đó góp phần phát huy nội lực trong nước và tăng vị thế của ngành nông nghiệp trên trường quốc tế.
8. Nông nghiệp công nghệ cao đã trở thành “làn sóng mới” trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Với tiềm lực về vốn, kinh nghiệm thương trường, các doanh nghiệp lớn tập trung đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đang tạo ra những sản phẩm chất lượng, được kiểm soát an toàn thực phẩm theo chuỗi, bước đầu cạnh tranh được với hàng hóa nhập ngoại và hướng tới xuất khẩu.
9. Một nhiệm kỳ Quốc hội thông qua nhiều bộ luật nhất về lĩnh vực nông nghiệp. Việc thông qua Luật Phòng chống chống thiên tai, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật Thú y đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý thống nhất, thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời tăng cường công tác quản lý Nhà nước về các lĩnh vực này.
10. Chi trả dịch vụ môi trường rừng là chính sách có hiệu quả rõ rệt nhất đối với việc bảo vệ và phát triển rừng hiện nay. Khi chính sách đi vào cuộc sống đã nâng diện tích rừng được bảo vệ từ 2,8-3,37 triệu ha. Đồng thời, tạo ra nguồn tài chính bền vững, góp phần ổn định đời sống của người làm nghề rừng, đặc biệt là đồng bào các dân tộc ít người ở các vùng miền núi.
Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, nông nghiệp, nông thôn đã đi đầu trong đổi mới và giành được những thành tựu toàn diện.
Bước sang giai đoạn mới, nhiệm vụ của ngành NN&PTNT hết sức nặng nề với nhiều khó khăn, thách thức trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, mạnh mẽ. Do đó, ngành NN&PTNT phải phấn đấu đạt và vượt mục tiêu để tăng trưởng bền vững, chất lượng, tiếp tục góp phần cải thiện nhanh điều kiện sống của dân cư nông thôn...
Theo Huy Lâm
Chinhphu.v
n

Thầy giáo ơi, tôi đã biết viết tên mình!

QĐND - Thứ ba, 17/11/2015 | 10:46 GMT+7
QĐND Online – “Chào thầy! Tôi đã biết viết tên những người mua hàng, từ nay không còn lo sẽ quên nữa. Vừa nói chị Vi Thị Kéo vừa lấy cuốn sổ con, với nét chữ vụng về ghi tên một số người mua hàng nợ chị”, Thiếu úy QNCN Nguyễn Sĩ Tiến, nhân viên Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Tén Tằn, Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa kể lại câu chuyện mà anh coi là phần thưởng quý giá, khích lệ tinh thần dành cho những người “thầy” vùng biên như anh.
Câu chuyện biết đọc, biết viết của chị Kéo, cũng là chính là nhiệm vụ mà những người lính Đồn Biên phòng Tén Tằn hướng tới với người dân nơi đây.
Thiếu úy QNCN Nguyễn Sĩ Tiến tại Đại hội thi đua yêu nước ngành giáo dục lần thứ VI.
Hành trình mang cái chữ
Xã Tén Tằn là xã vùng cao biên giới huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, cách TP Thanh Hóa 300km. Xã có 7 bản với 889 hộ/4.115 khẩu, chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái, chiếm 94% với một bản dân tộc Khơ Mú.
Từ một xã có học sinh đến tuổi mà không đến trường chiếm tỷ lệ cao và học sinh bỏ học nhiều, đến nay tình trạng trên ở bản Chiên Pục, xã Tén Tằn đã chấm dứt. Ở các lớp học xóa mù chữ, tỷ lệ học viên tham gia học tập đạt hơn 90%; đặc biệt, lớp học vừa bế giảng tháng 7-2015 ở bản Chiên Pục, qua kiểm tra, đánh giá 100% đã biết đọc, viết thông thạo.
“Kết quả đó đã tạo ra phong trào học tập chung trong toàn xã, tạo đà thuận lợi cho những lớp học tiếp theo”, Thiếu úy QNCN Nguyễn Sĩ Tiến phấn khởi cho biết.
7 năm làm công tác vận động quần chúng, chàng thiếu úy QNCN quê ở Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã trải qua không biết bao khó khăn để có được thành quả đáng mừng hôm nay. Người dân sau khi được học tập, đã biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống đồng bào được cải thiện, các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội từng bước được xóa bỏ, văn hóa xã hội phát triển; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định.
Kể về những ngày đầu nhận nhiệm vụ, Thiếu úy QNCN Nguyễn Sĩ Tiến sau khi tiến hành khảo sát tình trạng mù chữ và tái mù chữ trên địa bàn, đã nhận thấy rằng đối tượng chủ yếu là phụ nữ, tập trung ở độ tuổi 30-45. “Vào bản vận động chị em đi học, khi tôi giao tiếp với họ bằng tiếng phổ thông, câu trả lời của họ luôn là “không biết”. Mãi sau tôi mới nhận ra rằng muốn tiếp xúc và thuyết phục họ, mình phải am hiểu phong tục tập quán và ngôn ngữ của họ. Do đó, tôi đã vào bản cùng ăn, cùng ở và tham gia mọi hoạt động với họ, để được họ dạy tiếng dân tộc. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã hòa nhập được với các học viên. Lớp học vì thế mà thu hút đông học viên tham gia ở mọi lứa tuổi”, anh Tiến chia sẻ.
Cùng với sự giúp đỡ của đơn vị, chính quyền, địa phương, từ năm 2012 đến nay, anh Tiến đã trực tiếp mở và giảng dạy được 3 lớp với 176 học viên, trong đó chủ yếu là hội viên trong các chi hội phụ nữ. Tuy nhiên, anh Tiến đã gặp không ít khó khăn ban đầu trong việc dạy học với những học viên nữ, bởi những rào cản từ gia đình và xã hội, khi họ là lực lượng nòng cốt trong nội trợ gia đình như chăm sóc con, làm nương, phát rẫy… Để giải quyết những vướng mắc trên, bên cạnh công tác vận động, anh Tiến còn xây dựng chương trình học tập, biên soạn giáo án cho phù hợp với đặc điểm từng đối tượng học viên, mở các lớp xóa mù chữ ngay tại thôn, bản.
Sau bước đầu vận động học viên chịu đến lớp thành công, người thầy mang quân hàm xanh ấy lại phải tìm cách vượt qua những khó khăn khác trong quá trình học, bởi trình độ nhận thức của người dân không đồng đều, học viên còn mặc cảm. Hơn thế, thời gian học duy trì không đều vì chủ yếu học vào buổi tối, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, ngày mùa, công việc trong thôn bản, chồng con... Thậm chí một số bản chưa có điện lưới, việc đảm bảo ánh sáng, vật chất phục vụ lớp học hoàn toàn tự túc. Bên cạnh đó, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại ở một số hộ gia đình, nên một số chị em theo học không được chồng con ủng hộ hoặc bị dị nghị từ hàng xóm, phải bỏ học giữa chừng.
Không chỉ bị tác động bởi những điều kiện khách quan, ngay cả tư tưởng của học viên là luôn muốn bỏ học, cũng ảnh hưởng nhiều đến việc vận động các học viên đến lớp và duy trì sĩ số từ đầu khóa đến kết thúc chương trình, bởi 100% bà con làm nương, rẫy và đã có tuổi nên việc tiếp thu bài chậm, cộng thêm tính tự trọng dân tộc, anh Tiến chia sẻ.
Cuộc sống đổi thay
Bên cạnh công tác vận động, tuyên truyền xóa bỏ định kiến lạc hậu, anh Tiến cùng lãnh đạo địa phương còn tạo điều kiện cho chị em tham gia lớp học kết hợp thành lập các câu lạc bộ thêu, dệt thổ cẩm ở các thôn, bản thu hút và tạo việc làm cho chị em.
Gia đình chị Vi Thị Kéo là một ví dụ. Bề ngoài, chị khá già so với tuổi 30 bởi gia đình rất nghèo khổ, trong nhà không có một thứ gì đáng giá. Vận động thế nào chị cũng không đi học mà muốn ở nhà làm nương rẫy, buôn bán kiếm sống. Anh Tiến kể, hằng ngày anh cùng hội phụ nữ đến vận động, thuyết phục. Cảm động trước tấm lòng đó, chị đã đồng ý đi học.
Nghe chị Kéo reo lên: "Thầy giáo ơi, tôi đã biết viết tên mình rồi !", trong lòng tôi dâng trào niềm hạnh phúc, anh Tiến vui vẻ cho biết. Không chỉ tự viết được tên mình, chị Kéo còn biết viết tên những người mua hàng của mình, tôi liền động viên chị cố gắng học thêm để có thể ghi số tiền người ta nợ chị, như thế mới buôn bán được. Thấy được tác dụng của việc biết chữ, chị hăng hái đi học hơn, đến nay việc xóa mù chữ của chị đã gần hoàn thành, Thiếu úy QNCN Nguyễn Sĩ Tiến kể.
Không chỉ chị Kéo, mà nhiều bà con trong bản đã biết áp dụng kiến thức được học để làm cuộc sống tốt hơn. Nhờ kiến thức, họ biết cách lấy nguồn nước từ mó về nhà; quy hoạch cây trồng hiệu quả và chăn nuôi hợp lý hơn và họ còn biết tiết kiệm tiền.
“Nhìn thấy nụ cười của học viên, nhìn thấy cuộc sống của họ ổn định hơn, tôi thấy rất hạnh phúc. Bế giảng xong lớp học ở bản này tôi sẽ sang bản khác để tiếp tục giảng dạy, theo sự phân công của cấp trên”, đó là những nhận xét thật đơn giản nhưng thắm đượm tình thương của Thiếu úy QNCN Nguyễn Sĩ Tiến, khi kể về việc làm của mình với những người dân vùng biên giới xa xôi của Tổ quốc.
Bài, ảnh: THU HÀ

Những tấm gương yêu nghề, yêu trẻ

Thứ năm, 19/11/2015 - 09:33 PM (GMT+7)
 
Cô giáo Lò Thị Dinh với các cháu Trường mầm non Hoa Lan, huyện Mèo Vạc (Hà Giang).
Những ngày này, các địa phương trên cả nước diễn ra nhiều hoạt động tri ân thầy giáo, cô giáo, những người tâm huyết, tận tụy, gắn bó với sự nghiệp giáo dục. Trong số đó, có rất nhiều thầy giáo, cô giáo tiêu biểu được tuyên dương tại Đại hội thi đua yêu nước và kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành giáo dục và đào tạo (GD và ĐT). Bằng nghị lực, lòng yêu nghề, tình thương yêu học trò, các thầy giáo, cô giáo vượt qua nhiều khó khăn, quyết tâm bám lớp, bám trường, vì học sinh thân yêu.
Những “bông hoa” đẹp
Từ TP Hà Giang, sau bốn giờ đồng hồ vượt cung đường có nhiều khúc cua tay áo, chênh vênh trên sườn núi đá, chúng tôi có mặt tại huyện Mèo Vạc. Đến Trường mầm non Hoa Lan, chúng tôi gặp cô giáo Bàn Thị Bình, hiệu trưởng của nhà trường. Cô cho biết: Trường có ba điểm lẻ, ở đó, tất cả các em học sinh là người dân tộc Mông. Trong tổng số 42 cán bộ, giáo viên của nhà trường, cô giáo Lò Thị Dinh được ghi nhận là một trong những gương điển hình tiêu biểu, trẻ tuổi, nhiệt huyết của tỉnh năm 2015. Sinh ra trong gia đình có sáu anh chị em, ngay từ nhỏ, Lò Thị Dinh (người dân tộc thiểu số Lô Lô) luôn ý thức và khát khao được học chữ để sau này đem kiến thức dạy học cho trẻ em thôn, bản. Và, mong ước đã trở thành hiện thực, Dinh thi đỗ vào Trường cao đẳng Sư phạm Hà Giang. Khi bước vào môi trường học tập mới, xa gia đình, người thân, hằng tháng bố, mẹ cô chỉ đủ khả năng chu cấp 50 nghìn đồng. Để có tiền học tập, sinh hoạt, Dinh xin quét dọn ký túc xá (công việc đều đặn từ bốn giờ sáng hằng ngày), làm gia sư. Nhờ chịu khó học tập, năm học nào cô cũng giành được học bổng cho nên có đủ chi phí ăn ở, học tập.
Cô giáo Lò Thị Dinh chia sẻ: Ra trường, tôi về dạy học ở Trường mầm non Hoa Lan, sau đó nhà trường phân công đi dạy ở điểm trường lẻ Sán Tớ, dạy trẻ mầm non đã khó, trẻ ở điểm bản lại càng khó hơn; lớp học tuềnh toàng, trống huếch, chỉ có mấy cô trò giữa núi rừng heo hút. Có hôm đến giờ học, vẫn một mình cô giáo bơ vơ vì chưa cháu nào đến lớp. "Các cháu người dân tộc thiểu số không thạo tiếng Việt, nhiều khi cô nói xuôi nhưng trò làm ngược, thấy tủi vô cùng” - cô Dinh chia sẻ về những ngày đầu đứng lớp. Nhưng rồi, tình yêu trẻ đã giúp cô lấy lại tinh thần, gắn bó với bản, với lớp hơn. Để trẻ thật sự thích đến trường, cô Dinh thường xuyên tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học, tuyên dương các cháu kịp thời và luôn tạo sự gần gũi, thân thiện. Nhiều hôm các cháu về hết, chỉ còn mình cô ở lại cặm cụi làm đồ chơi để ngày mai các cháu đến lớp có thêm bất ngờ mới, niềm vui mới. Thậm chí ngày hè, lẽ ra được nghỉ ngơi, nhưng cô và một số giáo viên vẫn đến trường, mở các lớp bồi dưỡng năng khiếu tình nguyện để học sinh bớt đi thiệt thòi do không có điều kiện tham quan, du lịch như trẻ em ở thành phố.
Đến vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi gặp cô Nguyễn Thị Hồng Phượng, giáo viên Trường THPT Tân Phú (Long Mỹ, Hậu Giang). Cô là người nhận nuôi, đỡ đầu hơn mười học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Cô giáo Phượng kể: Trong một buổi giảng bài, tôi thấy một học sinh nam mặc chiếc áo đã cũ, bạc màu, gầy gò, nước da thâm đen, khuôn mặt khắc khổ, đôi mắt u buồn. Hình ảnh đó đã để lại cho tôi nhiều suy nghĩ. Đến tiết học sau, qua trò chuyện tôi được biết, đó là Nguyễn Hải Đông, một học sinh ngoan, học giỏi, bố mẹ đã ly hôn và bỏ rơi em từ bé. Đông sống cùng bà nội đã nhiều tuổi; bà mất, em không còn chỗ nương tựa. Sau khi bàn bạc, thống nhất giữa hai vợ chồng và bằng tình thương của người cô, người mẹ, vợ chồng cô Phượng đã nhận nuôi đỡ đầu Đông, với mong muốn để em có điều kiện tiếp tục tới trường. Từ đây, phong trào nhận nuôi đỡ đầu học sinh có hoàn cảnh khó khăn đã được hình thành ở Trường THPT Tân Phú. “Từ khi nhận nuôi, đỡ đầu Đông, tôi đã chú trọng hơn vào bữa ăn hằng ngày vì em có thể lực kém. Ngoài việc chú trọng dinh dưỡng, tôi còn chú ý đến những loại thức ăn có thể giúp Đông giảm đi căn bệnh viêm xoang, đau dạ dày và hướng dẫn em học tập. Đáp lại sự quan tâm đó, Đông đã thi đỗ ngành luật, Trường đại học Cần Thơ, đến nay em đã tốt nghiệp, ra trường. Trong nhiều năm qua, cô giáo Phượng tiếp tục nhận nuôi, đỡ đầu hơn mười lượt học sinh như thế.
Cô Dinh, cô Phượng chỉ là hai trong số rất nhiều nhà giáo được vinh danh tại Đại hội thi đua yêu nước và kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành GD và ĐT.
“Cắm bản” từ tuổi thanh xuân
Không ít người khi đặt chân đến vùng cao, vùng khó khăn đều thừa nhận, chỉ các thầy giáo, cô giáo phải thật sự tâm huyết mới đủ sức bám trụ với nghề. Theo thầy giáo Lâm Quang Hưng, Trưởng phòng GD và ĐT huyện Mèo Vạc (Hà Giang), do đặc thù là vùng cao, người dân sinh sống rải rác trên các triền núi đá, cho nên hoạt động giáo dục gặp nhiều khó khăn. Nơi đây, mỗi thôn, bản có khoảng 30 đến 40 hộ dân sinh sống. Để mang con chữ đến với học sinh, giáo viên phải luân phiên thay nhau đi “cắm bản”. Trong khi đó, hệ thống điện lưới quốc gia mới chỉ đến trung tâm xã, còn khoảng 70% số các điểm trường chưa có điện thắp sáng và sóng điện thoại. Trên địa bàn huyện có khoảng 100 hồ treo lớn, nhỏ nhưng hiện đã cạn kiệt, nguồn nước sinh hoạt bị thiếu nghiêm trọng. Thương các thầy, mỗi ngày đến trường, học sinh đều xách theo một chai nước đổ vào chum dùng chung của trường và cũng để thầy giáo, cô giáo sử dụng. Nhưng, khó khăn lớn nhất đối với giáo viên ở vùng cao hiện nay vẫn là sự thiếu thốn tình cảm. Không ít cặp vợ chồng cùng công tác ở điểm trường xa, con cái phải gửi về quê nhờ ông bà nuôi dạy, họ chỉ có cơ hội về thăm con vào các dịp nghỉ hè, lễ, Tết.
Có nhiều tấm gương nhà giáo sẵn sàng hy sinh quyền lợi của bản thân, hiến đất xây trường, cống hiến cho lợi ích chung của ngành. Nhiều nhà giáo đã dành cả tuổi thanh xuân của mình phục vụ sự nghiệp giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Cuộc vận động “Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn” mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ của các thầy giáo, cô giáo trên cả nước. Điều đó đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cũng như đời sống giáo viên; gắn kết tình cảm và trách nhiệm trong sự nghiệp phát triển giáo dục giữa miền xuôi với miền ngược, giữa đồng bằng với miền núi, giữa đất liền với biển đảo.
PGS, TS Nguyễn Thúy Hồng, Phó Cục trưởng Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (Bộ GD và ĐT), chia sẻ: Hiện nay, các nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đã nhận được sự quan tâm của ngành, của Đảng và Nhà nước với các chính sách ưu đãi từ đào tạo tới tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ, tôn vinh; phụ cấp công tác lâu năm tại vùng đặc biệt khó khăn, trợ cấp lần đầu đến công tác, trợ cấp chuyển vùng, ưu tiên về nhà ở… Tuy nhiên, cũng có giáo viên đã không trụ lại được với những khó khăn thường ngày khi đi “gieo” con chữ ở các vùng khó khăn. Nhưng nhìn chung, nhiều nhà giáo đã yên tâm ở lại công tác, vượt lên trên hoàn cảnh, có nhiều sáng kiến và đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục vùng khó khăn; nhiều nhà giáo được ghi nhận là cán bộ quản lý, giáo viên giỏi. Những thầy giáo, cô giáo đó thật sự là những tấm gương sáng về đạo đức nghề nghiệp, là những điển hình về lòng tận tụy với nghề, dù khó khăn đến đâu vẫn hết lòng vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.


- Bậc tiểu học hiện có 35.118 cán bộ quản lý, 383.528 giáo viên, tỷ lệ đạt chuẩn đào tạo 99,91%.
- Bậc THCS có 23.151 cán bộ quản lý, 299.088 giáo viên, tỷ lệ đạt chuẩn đào tạo 98,36%.
- Bậc THPT có 7.678 cán bộ quản lý, 127.093 giáo viên, tỷ lệ đạt chuẩn đào tạo 97,82%.
- Hệ giáo dục thường xuyên có 1.670 cán bộ quản lý, 8.830 giáo viên, tỷ lệ đạt chuẩn đào tạo 94,53%.
Nguồn: Bộ GD và ĐT

Bài học mà tôi có được qua tấm gương của các thầy giáo, cô giáo là: Một người thầy tốt, có năng lực nghề nghiệp thôi chưa đủ, mà rất cần có một tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ, một sự phấn đấu không mệt mỏi cho nghề mình đã chọn.
PGS, TS NGUYỄN THÚY HỒNG,
Phó Cục trưởng Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục



Bài và ảnh: Quý Tùng và Khánh Toàn

Mặt trận Tổ quốc với công tác xóa đói, giảm nghèo

(Báo Quảng Ngãi)- Xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc, cùng hợp tác, tương trợ phát triển kinh tế, xóa đói - giảm nghèo, làm giàu chính đáng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Nhiều cách hỗ trợ thiết thực

Bà Trần Thị Xí (50 tuổi) ở thôn Trường Định, xã Tịnh Khê (TPQN) là hộ nghèo trong xã. Nhà chỉ có vài sào ruộng, làm chỉ đủ ăn, vợ chồng bà sức khỏe yếu nên không thể làm thêm công việc khác. Năm 2011, bà được hỗ trợ 1 con bò giống, đến nay trong chuồng đã có 2 con bò mẹ và một con nghé trị giá trên 60 triệu đồng. Bà Xí hồ hởi bảo: “Nhờ có con bò giống được hỗ trợ, gia đình tôi mới có điều kiện cải thiện kinh tế đấy”. Trong 5 năm (2010 - 2015), xã Tịnh Khê đã vận động Quỹ “Vì người nghèo” gần 200 triệu đồng; xây dựng 29 nhà tình thương cho các đối tượng nghèo gặp khó khăn về nhà ở trị giá 737 triệu đồng; hỗ trợ 500 lượt hộ nghèo vay vốn từ các nguồn vốn vay ưu đãi để phát triển kinh tế gia đình. Nhờ đó, từ 434 hộ nghèo năm 2010, đến nay toàn xã chỉ còn 128 hộ nghèo, chiếm 3,91% tổng số hộ dân.

Trà Bồng, một trong 6 huyện miền núi của tỉnh, đời sống của người dân còn gặp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Những năm qua, thông qua cuộc vận động ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo”, MTTQVN huyện Trà Bồng đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân trong huyện đóng góp, ủng hộ để giúp đỡ, hỗ trợ các hộ nghèo, người nghèo phát triển sản xuất; hỗ trợ khi ốm đau, bệnh tật, bị rủi ro. Đặc biệt, MTTQVN huyện đã kêu gọi sự ủng hộ của con em xa quê, các doanh nghiệp, nhà hảo tâm cùng chung tay chăm lo cho người nghèo. Nhờ đó, quỹ đã tặng sữa, tặng sách vở và đồ dùng học tập cho con em hộ nghèo; chương trình hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo của các doanh nghiệp...
Ngôi nhà mới khang trang của gia đình anh Hồ Văn Vàng ở xã Trà Thủy (Trà Bồng).
Ngôi nhà mới khang trang của gia đình anh Hồ Văn Vàng ở xã Trà Thủy (Trà Bồng).

Gia đình anh Hồ Văn Vàng ở thôn Trung, xã Trà Sơn thuộc diện hộ nghèo. Trước đây, căn nhà của vợ chồng anh Vàng không đủ che mưa che nắng cho cả gia đình 4 người. Mới đây, được Quỹ Thiện Tâm thuộc Tập đoàn Vingroup hỗ trợ 50 triệu đồng, cộng với sự hỗ trợ của địa phương, bà con láng giềng góp ngày công lao động, sau 1 tháng xây dựng, gia đình anh Vàng đã có ngôi nhà đại đoàn kết trị giá 60 triệu đồng. Hôm nhận nhà mới, anh Vàng rất xúc động: “Xây được ngôi nhà như thế này là nhờ sự giúp đỡ của nhiều người. Giờ đây, vợ chồng tôi yên tâm làm ăn, phát triển kinh tế, nuôi con ăn học rồi”.

Qua 15 năm triển khai thực hiện Quỹ Vì người nghèo (2000-2015) huyện Trà Bồng đã vận động được gần 7,5 tỷ đồng. Từ nguồn quỹ vận động đã tiến hành hỗ trợ xây mới và sửa chữa 647 nhà cho người nghèo, hỗ trợ 385 suất học bổng, 3.656 suất quà Tết, đồng thời hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ tiền cho các hộ gia đình khó khăn.

Xã hội hóa công tác xóa đói, giảm nghèo

Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, đặc biệt nhiều huyện miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao. Do đó, Ủy ban MTTQVN tỉnh đã xác định công tác xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng, góp phần tích cực vào chương trình xóa đói, giảm nghèo chung của tỉnh. Từ năm 2000 đến tháng 9.2015, “Quỹ Vì người nghèo” các cấp đã vận động được 186,963 tỷ đồng. Trong đó cấp tỉnh huy động được 115,334 tỷ đồng; cấp huyện và cấp xã huy động được 71,629 tỷ đồng.

Ngoài ra, chương trình an sinh xã hội do Mặt trận và các hội đoàn thể trong toàn tỉnh đã vận động được 297,3 tỷ đồng.  Từ nguồn quỹ này, UBMTTQVN tỉnh đã hỗ trợ xây dựng, sửa chữa, giúp đỡ trên 11.000 hộ nghèo được cải thiện về nhà ở; hỗ trợ kịp thời cho hàng nghìn hộ nghèo mua vật tư, phương tiện sản xuất, chữa bệnh, tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo. Ngoài ra, MTTQ các cấp còn hỗ trợ cho hàng nghìn con em hộ nghèo có điều kiện học hành, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt khó khăn.

Bên cạnh đó, Ủy ban MTTQVN tỉnh có nhiều biện pháp để huy động nhiều nguồn lực. Đơn cử như từ năm 2011 đến nay, để tập trung chăm lo cho những hộ nghèo, người nghèo gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, giúp ổn định cuộc sống trước mắt, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh đã phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và Công ty Sữa đậu nành Việt Nam – Vinasoy thực hiện chuyên mục “Kết nối những tấm lòng” phát trên sóng PTQ vào tối thứ tư hằng tuần và phối hợp với Báo Quảng Ngãi thực hiện chuyên mục “Vòng tay nhân ái”.

Hai chuyên mục đã thu hút ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đóng góp ủng hộ, tạo được phong trào chung tay giúp đỡ người nghèo. Riêng chuyên mục “Kết nối những tấm lòng”, sau 5 năm thực hiện, đã có 230 trường hợp được hỗ trợ với tổng số tiền gần 5 tỷ đồng, trong đó Vinasoy tài trợ 1.920 triệu đồng, các tổ chức cá nhân đóng góp gần 3 tỷ đồng.

Thông qua các cuộc vận động, các chương trình, đề án xóa đói, giảm nghèo, MTTQVN và các tổ chức thành viên trong toàn tỉnh đã và đang nhận được sự ủng hộ, đồng thuận của các tầng lớp nhân dân. Với sự nỗ lực đó, hàng năm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh giảm từ 2,1 - 3,1%. Đến thời điểm này, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh còn 13,4%.

Trong thời gian tới, nguồn lực huy động ủng hộ Quỹ Vì người nghèo sẽ tập trung ưu tiên hỗ trợ về phương tiện sản xuất, đặc biệt là các cây, con giống; giúp đỡ về kỹ thuật, kiến thức làm ăn, tạo việc làm cho người nghèo, hộ nghèo. Gắn với đó là lựa chọn đúng đối tượng nghèo để có sự tác động, giúp đỡ phù hợp; sâu sát từng đối tượng để các nguồn lực dành cho công tác xóa đói, giảm nghèo phát huy hiệu quả cao, góp phần giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
Bài, ảnh: XUÂN HIẾU

Người phụ nữ mê "xóa đói, giảm nghèo"

Dân trí “Điểm tựa của phụ nữ nghèo” - đó là lời khen của nhiều chị em hội viên, phụ nữ dành cho cô Võ Thị Cân - Chủ tịch hội Liên hiệp phụ nữ phường Điện Nam Trung (thị xã Điện Bàn, Quảng Nam).

Hơn 10 năm “vác tù và hàng tổng”
Bám sát công tác giảm nghèo cho chị em phụ nữ, tuyên truyền vận động hòa giải các cặp vợ chồng, nhận đỡ đầu trẻ em trong hộ nghèo... là những công việc mà cô theo đuổi nhiều năm qua.
Với trách nhiệm “thủ lĩnh” của Hội phụ nữ phường, cô luôn tâm huyết, trăn trở phải làm sao nâng cao đời sống, giúp các hội viên phụ nữ thoát nghèo vươn lên làm giàu. Đối với cô, đã làm việc là phải nghiêm túc, nhiệt tình, tận tụy, chị em nào gặp khó khăn, cần trợ giúp cô đều có mặt bất kể ngày hay đêm.
Cô Võ Thị Cân (ảnh phải) trao heo giống cho chị em phụ nữ có sinh kế làm ăn
Cô Võ Thị Cân (ảnh phải) trao heo giống cho chị em phụ nữ có sinh kế làm ăn
Đặc biệt, từ quỹ rủi ro của Hội, vốn hỗ trợ của ngân hàng chính sách xã hội (mỗi hội viên có thể vay từ 30-50 triệu đồng) mà nhiều phụ nữ đã thoát nghèo, vượt lên hoàn cảnh.
Hỗ trợ sinh kế, ai cần xe nước mía được hỗ trợ xe, ai bán xôi hỗ trợ đồ nghề, ai muốn chăn nuôi, trồng trọt thì hỗ trợ con giống, hạt giống tốt… không lấy lãi. Vừa qua, hội vận động được con 8 heo giống chia đều cho các khối, sau khi hội viên chăn nuôi thành công, con giống được bàn giao lại tiếp tục hỗ trợ người khác theo hình thức xoay vòng.
Bên cạnh đó, cô vận động chị em tiểu thương phường Điện Nam Trung đóng góp quỹ hỗ trợ nồi cháo tình thương cho bệnh nhân nghèo tại bệnh viên Đa khoa khu vực Quảng Nam (phường Vĩnh Điện, thị xã Điện Bàn). Vận động hội viên phụ nữ đóng góp thăm nom, chia sẻ với trẻ em làng SOS, trẻ em vùng sâu, vùng xa mỗi suất quà trị giá 200 ngàn/suất. Cũng từ nguồn quỹ đó, cô đề ra việc tặng sổ tiết kiệm có giá trị từ 3- 5 triệu đồng cho các phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Cô Cân còn được mọi người biết đến với vai trò “quan tòa” công tâm, hòa giải các vụ xích mích, xung đột trong gia đình các hội viên. Nhìn cảnh “cơm không lành, canh không ngọt” giữa các cặp vợ chồng cô lại thấy thương cho những đứa trẻ vô tội. Cô đến nhà vận động, giải thích tường tận cho vợ chồng hiểu và thông cảm với nhau, bỏ qua lỗi lầm vì con cái, nếu chị em phụ nữ sai cô sẽ nhận phần lỗi về mình rồi khuyên răn họ. Nhiều vụ vợ chồng sắp đâm đơn ra tòa ly dị đều nhờ sự khuyên can của cô mà êm ấm trở lại.
Địa bàn phường có trẻ chưa đủ tuổi vị thành niên hư hỏng, quậy phá, cần đưa vào trại giáo dưỡng công an lại mời cô đến xem xét, giải quyết.
Hơn 10 năm qua, những phụ nữ nghèo ở phường Điện Nam Trung (thị xã Điện Bàn, Quảng Nam) luôn coi cô Võ Thị Cân là điểm tựa giúp họ có động lực vươn lên trong cuộc sống.
Trái ngọt
Việc chú trọng giảm nghèo và cận nghèo, cô làm rất tốt và mang lại hiệu quả đáng kể. Năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo của phường ở mức 8,07% nhưng đến năm 2014 đã giảm còn 4,15%, định hướng cuối năm 2015 giảm xuống 3,11%. Vận động được 13 hộ dự kiến đến năm 2016 sẽ thoát được nghèo, góp phần giảm thiểu tỉ lệ hộ nghèo trên địa bàn phường.
Chia sẻ bí quyết thực hiện việc này, cô Cân nói: “Chỉ cần áp dụng đúng theo chương trình vay vốn, liên hệ phụ nữ nghèo và động viên hướng dẫn làm hồ sơ. Bên cạnh đó, phải vận động chị em chú tâm làm ăn, dành mỗi tháng vài trăm ngàn để trả góp dần cho hết”.
Trao bò cho hội viên Lê Thị Ngọt, trong đó 3 triệu do huyện hỗ trợ thêm
Trao bò cho hội viên Lê Thị Ngọt, trong đó 3 triệu do huyện hỗ trợ thêm
Theo cô nhận định, chỉ cần chị em có sức khỏe, được vay vốn và chú tâm làm ăn thì sẽ thoát nghèo. Đặc thù khó khăn là các phụ nữ lớn tuổi, neo đơn, không có sức lao động sẽ phân công chị em chi hội đến chăm sóc tuổi già. Được hưởng chính sách bảo trợ xã hội theo nghị định của chính phủ dành cho người neo đơn.
Với người phụ nữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, gia đình luôn là điểm tựa vững chắc, hậu phương tuyệt vời để cô chăm lo công tác xã hội. Bên cạnh người chồng tâm lý, biết chia sẻ cùng vợ là những đứa con ngoan ngoãn, học giỏi. Mỗi khi nhắc đến gia đình, cô lại nở nụ cười mãn nguyện hạnh phúc: “Thấy con cái mình ăn học thành tài tôi rất vui và muốn giúp đỡ thật nhiều chị em có hoàn cảnh khó khăn để họ có điều kiện chăm lo cho con em đến trường”.
Vừa qua, cô vinh dự được Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã Điện Bàn bình chọn là một trong những tấm gương điển hình tiên tiến, người cán bộ giỏi, tấm gương phụ nữ xuất sắc học tập và làm theo lời Bác.
Nhận xét về cô Võ Thị Cân, bà Đinh Thị Lệ - Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã Điện Bàn nói: “Chị Cân là cán bộ nhiệt tình, tâm huyết về mọi mặt trong công tác hội. Đặc biệt, riêng việc giảm nghèo cho phụ nữ địa phương thì chị làm rất tốt và luôn được đánh giá cao”.
N.Linh-C.Bính

Việt Nam là một trong những đối tác ưu tiên của OECD

(HNMO) - Ngày 18-11, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao phối hợp với Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) tổ chức Tọa đàm “Triển vọng hợp tác Việt Nam - OECD: Hướng tới tăng trưởng bao trùm”. T

Trợ lý Bộ trưởng, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế, Bộ Ngoại giao Vũ Quang Minh và ông Alessandro Goglio, Trưởng ban Đông Nam Á của OECD đồng chủ trì Tọa đàm.

Tham dự Tọa đàm có khoảng 100 đại biểu gồm đại diện các Bộ ngành, các viện nghiên cứu, chuyên gia, học giả, doanh nghiệp Việt Nam; chuyên gia OECD trong lĩnh vực tăng trưởng bao trùm và đại diện một số Đại sứ quán các nước thành viên OECD ở Hà Nội.
 

Tọa đàm đã tập trung thảo luận: Đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam - OECD trong giai đoạn 2012 - 2015; Triển vọng, phương hướng hợp tác Việt Nam - OECD giai đoạn 2016 - 2020, trong đó thảo luận khả năng lồng ghép, tranh thủ nguồn lực từ Chương trình Đông Nam Á (SEAP) của OECD cho hợp tác Việt Nam - OECD; các lĩnh vực, hoạt động cần ưu tiên thúc đẩy hợp tác nhằm góp phần hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm trong giai đoạn 2016 - 2020.

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Trợ lý Bộ trưởng, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế Bộ Ngoại giao Vũ Quang Minh đánh giá hợp tác Việt Nam - OECD thời gian qua đã đạt nhiều kết quả trong nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã gia nhập Trung tâm phát triển của OECD năm 2008; hiện là thành viên tích cực trong Ủy ban hỗ trợ phát triển của OECD. Việt Nam đã phối hợp với OECD hoàn thành báo cáo đánh giá chính sách nông nghiệp, chính sách khoa học công nghệ và đầu tư. Việt Nam cũng tích cực hưởng ứng Chương trình Đông Nam Á của OECD được bắt đầu triển khai từ năm 2014. Ông Vũ Quang Minh nhấn mạnh, tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và OECD còn rất lớn, nhất là khi sự phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới. Việt Nam có nhu cầu thúc đẩy hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, tư vấn chính sách của OECD trong nhiều lĩnh vực nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm.

Ông Vũ Quang Minh khẳng định, Việt Nam sẵn sàng phối hợp chặt chẽ với OECD triển khai chương trình Đông Nam Á thiết thực, hiệu quả; trong đó lồng ghép các dự án hợp tác của Chương trình này với hợp tác Việt Nam - OECD; mong muốn OECD tăng cuờng hỗ trợ Việt Nam cải cách kinh tế và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế thong qua các khuôn khổ hợp tác song phuơng, ba bên và khu vực.

Phát biểu tại Toạ đàm, ông Alessandro Goglio, Trưởng ban Đông Nam Á OECD, đánh giá Đông Nam Á đang là một trong những khu vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng quan trọng trên thế giới. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đạt thành tích xoá đói giảm nghèo ấn tượng. Ông Goglio cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách doanh nghiệp nhà nuớc, cải thiện môi truờng đầu tư, hoàn thiện các chính sách lao động, xã hội nhằm nâng cao năng suất và huớng đến mục tiêu phát triển bao trùm. Ông Goglio nhấn mạnh, Việt Nam là một trong những đối tác ưu tiên của OECD ở Đông Nam Á và khẳng định OECD sẵn sàng tăng cường hợp tác với Việt Nam trong những lĩnh vực Việt Nam ưu tiên trong giai đoạn phát triển và hội nhập sắp tới, đặc biệt trong việc hỗ trợ Việt Nam thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016-2020 và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế sâu rộng.

Cùng ngày, đoàn chuyên gia OECD đã có các buổi làm việc với các Bộ Tư pháp, Công Thương và Tài chính để trao đổi phương hướng hợp tác trong từng lĩnh vực cụ thể.
Đình Hiệp

Vào TPP, Việt Nam phấn đấu thành "công xưởng" dệt may của thế giới

Khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP có hiệu lực, dòng vốn đầu tư vào dệt may sẽ có sự đột phá. Trên cơ sở đó, từ năm 2018 đến 2040, Việt Nam sẽ là công xưởng dệt may của thế giới và chỉ đứng sau Trung Quốc.
Đó là nhận định của ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp Hội dệt may Việt Nam tại buổi Hội thảo “Thị trường Chứng khoán cuối năm 2015 và cơ hội đầu tư cổ phiếu ngành Dệt may” do Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội phối hợp với Công ty Chứng khoán Công thương tổ chức chiều 30/10 vừa qua.
Vào TPP, Việt Nam phấn đấu thành "công xưởng" dệt may của thế giới
Trong gian đoạn 2018-2040, Dệt may Việt Nam phấn đấu từ vị trí thứ 5 về XK trở thành công xưởng dệt may thế giới, sau Trung Quốc.
Tại buổi hội thảo, vị lãnh đạo Hiệp hội dệt may Việt Nam cho rằng, ngành Dệt may luôn được đánh giá là ngành hưởng lợi nhất từ TPP, tuy nhiên chưa cần đến tác động của TPP , FTA trong thời gian tới thì Dệt may đã có được sự tăng trưởng mạnh ngay từ khi gia nhập WTO với tốc độ tăng trưởng 17%-18%/năm. Dự kiến tốc độ tăng trưởng khi TPP có hiệu lực là 25%/năm.
Hiện nay, XK dệt may Việt Nam 5 mặt hàng chiến lược. Ngoài sản phẩm là quần áo, ngành còn XK sợi các loại (KNXK 3tỷ USD/năm), vải (KNXK 1 tỷ USD năm 2014), 600 triệu USD nguyên phụ liệu khác, vải kỹ thuật làm đường, mành làm lốp ôtô, xe đạp (Công ty Cao su Sao vàng sử dụng 100 nguyền nguyên liệu của Việt Nam).
Theo ông Giang, ngành dệt may Việt Nam hiện nay cũng đang phải đối mặt với tình trạng nguồn cung thiếu hụt, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, đặc biệt là thị trường Trung Quốc.
Ông Giang cũng cho biết 5 năm vừa qua, việc đẩy mạnh đầu tư sản xuất nguyên phụ giúp tỷ lệ nội địa hóa đã tăng lên mức 50%, mục tiêu sẽ đạt mức 70% trong năm 2018. Dệt may đã và đang thu hút dòng vốn FDI rất lớn, tính đến thời điểm hiện nay đã là 3,5 tỷ USD. Dự kiến trong thời gian tới dòng vốn này còn có sự đột phá hơn.
Theo ông Giang, Chính phủ đặt ra mục tiêu đến năm 2020, XK dệt may đạt 30 tỷ USD, nhưng tính đến năm 2015 XK dệt may đạt được 28 tỷ USD, vượt 5 năm so với kế hoạch. Theo đó, Hiệp hội dệt may Việt Nam dự kiến đến năm 2020 đạt 50-55 tỷ USD, thậm chí còn cao hơn. Trong gian đoạn 2018 - 2040, Dệt may VN phấn đấu từ vị trí thứ 5 về XK trở thành công xưởng dệt may thế giới, sau Trung Quốc.
Trước lo ngại của nhiều nhà đầu tư về việc doanh nghiệp FDI sẽ trở thành thách thức lớn đối với các doanh nghiệp nội địa, ông Giang nhận định không hẳn là vậy do ngành phụ trợ cho dệt may được hưởng lợi, lao động, nông sản, lương thực phẩm. Đặc biệt là, các doanh nghiệp chuyên về may có được thị trường nguyên liệu về giám, thời gian, giao hàng chất lượng, sản phẩm đáp ứng nhanh kịp thời để đáp ứng được điều kiện thị trường lớn. Ngoài ra đây là cơ hội để doanh nghiệp có cơ hội cọ sát học hỏi từ các doanh nghiệp FDI.
Bên cạnh những cơ hội, ông Giang nhận định dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt nhiều thách thức. Theo nhận định của vị này, ngành dệt may sẽ đối mặt với khó khăn từ chiến lược đầu tư quy mô dài hạn đến 2040; đào tạo nguồn lực và về việc phát triển công nghiệp dệt may đi đôi với bảo vệ môi trường bền vững.
Trước đó, theo nhận định của Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính), trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc và da giầy, Việt Nam còn vướng mắc ở khâu nguyên liệu sản xuất. Với yêu cầu của TPP, áp dụng nguyên tắc “từ sợi trở đi” thì Việt Nam khó có thể đáp ứng được do ngành may mặc và da giầy của Việt Nam bị lệ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc là nước không tham gia TPP.
Tuy nhiên, theo cam kết cuối cùng của TPP, “cơ chế nguồn cung thiếu hụt” cũng cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực nên đây cũng là một trong những thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam cơ cấu lại nguồn nguyên liệu. Năm 2014, nhập khẩu nguyên liệu cho ngành may mặc và da giầy của Việt Nam là 4,69 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc 32,9%; Hàn Quốc 16,97%; EU 5,8%.
Tuy nhiên, 3 đối tác trong TPP tương lai là Nhật Bản, Hoa Kỳ và Australia chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn, tương ứng là 4,76%; 5,59% và 0,87%. Nếu tình trạng này không được cải thiện, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các đối tác TPP sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan 0%, trước hết là hàng may mặc và da giầy. Điều này sẽ rất bất lợi cho Việt Nam.
Cũng tại buổi hội thảo, đánh giá và dự báo về triển vọng thị trường chứng khoán cuối năm 2015 và cơ hội đầu tư. Theo ông Đặng Trần Hải Đăng – Phó Phòng Nghiên cứu Phân tích VietinBankSc, bên cạnh những yếu tố tích cực như FED duy trì không tăng lãi suất và những chính sách hỗ trợ từ Chính Phủ, đề án thoái vốn từ SCIC, TTCK vẫn phải đối mặt với một số tác động tiêu cực như tình hình Trung Quốc cũng như giá dầu duy trì ở mức thấp, do đó dự kiến TTCK Việt Nam sẽ dao động trong vùng 600 - 610 điểm, tuy nhiên sẽ được phân hóa theo ngành.
Ông Đăng cũng lưu ý một số cổ phiếu ngành tâm điểm thích hợp đầu tư vào giai đoạn cuối năm 2015 như ngành Vật liệu xây dựng (HPG, CVT), ngành Công nghệ thông tin (FPT, CMG), Ngành Dệt may với một số mã cổ phiếu tiêu biểu như TCM, TNG, GMC, G20, trong đó ngành Dệt may được được đánh giá là có triển vọng tăng trưởng mạnh trước cơ hội lớn từ việc ký kết các Hiệp định thương mại . Trên thực tế, nhìn chung ngành dệt may luôn có diễn biến giá tích cực hơn so với VN-index, cũng như một số ngành hàng khác. Điển hình trong giai đoạn trước thềm TPP chính thức công bố hoàn tất đàm phán, hầu hết các cổ phiếu trong ngành đều ghi nhận mức tăng giá mạnh.
HNX
VĂN HUY

Vượt mây mù gieo chữ vùng cao

TP - Giao thông cách trở, điện không có, lớp học nhà tranh vách nứa… không ngăn được cô giáo Đàm Thị Thu Thủy gắn bó với trẻ nhỏ vùng cao Bắc Hà (Lào Cai). Cô vận động phụ huynh cho con em quay lại trường, tham gia làm đường, trồng rau, làm đồ dùng dạy học, đồ chơi… cho học sinh.
Với tình yêu trẻ, yêu nghề, cô giáo Thủy đã gắn bó với trường lớp vùng cao Bắc Hà. Ảnh: Xuân Tùng.Với tình yêu trẻ, yêu nghề, cô giáo Thủy đã gắn bó với trường lớp vùng cao Bắc Hà. Ảnh: Xuân Tùng.
Đàm Thị Thu Thủy hiện là cô giáo nuôi dạy trẻ tại phân hiệu Nậm Thố của Trường Mẫu giáo Thải Giàng Phố (huyện Bắc Hà, Lào Cai). Năm 2011, sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai, Thu Thủy (SN 1990, quê Phú Thọ) tình nguyện lên với trẻ em vùng cao Bắc Hà để gieo con chữ.
Con đường dẫn vào phân hiệu Nậm Thố còn nguyên dấu tích khai phá với bên vách đá còn đỏ màu đất, vết cào máy xúc và bên vực hun hút chưa ta-luy, bờ kè. Chiếc xe máy tăng bo của thầy cô giáo chở chúng tôi luôn chực quay ngang hoặc tụt dốc trên mặt đường lục cục đá. Những cô giáo nơi đây bảo: “Vẫn ngồi trên xe để đi là may rồi. Những hôm trời mưa, hay khi sương chiều giăng xuống, con đường lầy bùn đất như được bôi thêm mỡ. So với điểm trường khác, đường vào Nậm Thố dễ hơn nhiều”. Cô Thủy cho hay, đường vào phân hiệu Sản Chư Ván những khi mưa phải đi ủng và cuộn thêm xích vào bánh xe mới di chuyển được. Đây là phân hiệu đầu tiên cô Thủy công tác khi về Trường Mẫu giáo Thải Giàng Phố.
Kể về ngày đầu vượt hơn 20km đường núi từ điểm trường chính vào phân hiệu Sản Chư Ván, cô Thủy nói: “Dù xác định tinh thần đi vùng cao là đối mặt với khó khăn, xa gia đình, nhưng vẫn không khỏi bất ngờ trước sự cách trở của giao thông, không điện, không sóng điện thoại; lớp mẫu giáo mượn tạm của trường tiểu học còn đơn sơ, nhà tranh vách nứa, cơ sở vật chất thiếu thốn”. Lớp học biệt lập giữa bốn bề núi và sương mù bao phủ, lại thêm khó khăn bất đồng ngôn ngữ ảnh hưởng tới việc dạy học và giao tiếp với học sinh, phụ huynh. “Những khi một mình ở lại điểm trường tôi càng thấy nhớ nhà hơn. Tôi nhiều lần đã khóc, thậm chí từng muốn về quê Phú Thọ”, cô Thủy bộc bạch.
Do nghèo khó còn bủa vây, không ít phụ huynh phải cho con nghỉ học để phụ giúp công việc gia đình. Sau 5 năm công tác, cô Thủy không ít lần phải đi vận động phụ huynh cho trẻ quay lại trường.
Vượt mây mù gieo chữ vùng cao - ảnh 1
Nỗ lực vì học sinh
Vượt qua khó khăn của điều kiện công tác, giáo viên Trường Mẫu giáo Thải Giàng Phố còn tích cực cải thiện chất lượng dạy học và bữa ăn cho trẻ. Trong vai trò Bí thư Đoàn Thanh niên Trường, cô Thủy phát động các hoạt động tình nguyện trong nhà trường và huy động người dân tham gia dọn vệ sinh trường lớp, sửa sang lớp học, làm đường lên các phân hiệu, làm vườn trồng rau xanh cải thiện bữa ăn học sinh... Ngay tại điểm trường Nậm Thố, cô Thủy và các giáo viên khác tận dụng khoảnh đất trống để làm thành mảnh vườn được quây kín bằng rào nứa và lưới, trồng rau muống, bắp cải, mùa nào trồng thức nấy để cải thiện bữa ăn cho trẻ.
Bên cạnh đó, các lớp học tại 6 phân hiệu và trường chính đều có nhiều đồ dùng minh họa cho việc dạy học, đồ chơi trong lớp và ngoài trời làm từ vật liệu sẵn có tại địa phương do cô Thủy tự tay thiết kế và làm như: cổng chui cho trẻ từ lốp xe, bập bênh, xích đu bằng gỗ... Cô Thủy còn tổ chức chương trình quyên góp quần áo ủng hộ bằng cách vận động người thân và bạn bè qua mạng xã hội.
Với lòng yêu nghề và tích cực trong các phong trào, cô giáo Đàm Thị Thu Thủy đạt được nhiều thành tích như: đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh nhiều năm; Giải nhất Hội thi tuyên vận giỏi cấp học mầm non tỉnh Lào Cai (tháng 10/2015); đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở hai năm học 2013-2014 và 2014-2015. Hiệu trưởng Trường Mầm non Thải Giàng Phố Nguyễn Thị Duyên cho biết: “Cô Thủy là giáo viên trẻ có năng lực chuyên môn giỏi và tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn, phong trào thanh niên đóng góp nhiều sáng kiến ý nghĩa. Cô cũng là người khéo tay, sáng tạo nhiều đồ dùng giảng dạy, đồ chơi cho học sinh”.
Cô Thủy tâm sự: “Động lực để tôi gắn bó với trường lớp là sự động viên của đồng nghiệp, nhất là sự hiếu học của học sinh. Mỗi lần yếu lòng, tôi luôn tự nhủ các em học sinh hằng ngày vẫn tự trèo đèo lội suối, đi bộ 4-5km để đến lớp, tại sao là một giáo viên, từng học chuyên ngành mầm non lại không thể vượt qua khó khăn, gạt bỏ cảm giác sợ cô đơn. Đến giờ tôi khẳng định sẽ gắn bó với các em học sinh vùng cao nơi đây. Bắc Hà đã trở thành quê hương thứ hai; là nơi có nhiều kỷ niệm với những bước ngoặt để tôi trưởng thành hơn”.
Cô giáo Đàm Thị Thu Thủy là một trong 63 tấm gương cô giáo vùng cao trên toàn quốc sẽ được tuyên dương trong Chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô”, do T.Ư Hội LHTN Việt Nam phối hợp Tập đoàn Thiên Long tổ chức. Cô Thủy nói: “Tôi đã cảm thấy rất vinh dự và vui khi được chia sẻ những tâm tư. Tôi mong muốn những học sinh nơi vùng cao được nhận thêm nhiều sẻ chia, giúp đỡ hơn nữa”.


Đàm phán Hiệp định TPP thành công - Cú hích cho đàm phán RCEP

                                                LÊ MINH (TTXVN/VIETNAM+) BẢN IN
Ảnh minh họa. (Nguồn: alochonaa.com)

Đứng ngoài cuộc chơi của các nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với một thỏa thuận vừa đạt được vào tuần trước, các nước tham gia một hiệp định tương tự là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), hình thành nên một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới gồm 16 nước, đang chịu sức ép trong việc đẩy nhanh đàm phán trước lo ngại về sự cạnh tranh trong xuất khẩu.

Theo một quan chức Ấn Độ, các nước thành viên sẽ chịu sức ép về đàm phán nhanh RCEP, trong khi sự ganh đua của Trung Quốc với Ấn Độ và Nhật Bản sẽ làm phức tạp quá trình đàm phán, có động lực để thúc đẩy tiến trình này.

Theo một quan chức Bộ Ngoại giao Nhật Bản, TPP sẽ đẩy nhanh tốc độ đàm phán RCEP và có thể có tác động đến việc nâng cao các tiêu chuẩn của hiệp định.

Theo giáo sư Tu Xinquan ở Đại học Kinh doanh và Kinh tế Quốc tế tại Bắc Kinh, Trung Quốc có thể mất chỗ đứng trước các nước cạnh tranh về chế tạo như Việt Nam, bởi khi là thành viên TPP, Việt Nam sẽ tăng xuất khẩu hàng được miễn thuế vào Mỹ và các nước khác.

Giáo sư Tu cho rằng đây không phải là vấn đề về sự cạnh tranh giữa RCEP và TPP, mà là về sức ép do TPP gây ra, và với sức ép này có kỳ vọng đàm phán RCEP sẽ nhanh chóng về đích.

Theo ước tính của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (tức ngân hàng trung ương) nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sẽ để mất cơ hội tăng GDP thêm 2,2% nếu không tham gia TPP.

RCEP ban đầu do 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á khởi xướng, nhưng Trung Quốc ngày càng cho thấy sự ủng hộ đối với hiệp định này.

Theo người đứng đầu bộ phận nghiên cứu thương mại khu vực của Viện Chính sách kinh tế quốc tế Hàn Quốc, Kim Young-gui, Trung Quốc rốt cuộc có thể muốn lái đàm phán RCEP hướng tới một thỏa thuận lớn hơn bao gồm cả TPP, thành Hiệp định Thương mại Tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP).

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hua Chunying nói Trung Quốc hy vọng hai hiệp định sẽ bổ sung cho nhau, thúc đẩy và có lợi cho việc tăng cường hệ thống thương mại đa phương.

Theo người phát ngôn Bộ Thương mại và Ngoại giao New Zealand, nước này coi TPP và RCEP như những nền tảng cho việc hướng tới tầm nhìn về một hiệp định thương mại tự do của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

16 nước tham gia đàm phán sẽ đưa ra các đề xuất về mở cửa thị trường tại cuộc họp ở Busan (Hàn Quốc) vào ngày 12/10, với mục tiêu về những nỗ lực cao nhất hướng tới việc đạt thỏa thuận vào cuối năm.

Các nhà đàm phán dự kiến sẽ chia sẻ các danh sách đề xuất về giảm thuế đối với hàng hóa và dịch vụ.

Bảy nước Australia, Nhật Bản, Malaysia, New Zealand, Singapore, Việt Nam và Brunei tham gia cả TPP và RCEP./.

Đưa VN trở thành công xưởng của thế giới

- Việt Nam có thể trở thành một trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới trong vòng 20 năm tới.
Hôm nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Ban Thường trực UB TƯ MTTQ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới tổ chức hội thảo quốc tế “Việt Nam trở thành một trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới sau năm 2015”.
trung tâm chế tạo mới, Chủ tịch MTTQ, Nguyễn Thiện Nhân
Chủ tịch UB TƯ MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch UB TƯ MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình và bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Đông Á và Thái Bình Dương đồng chủ trì hội thảo.
Sẵn sàng đón làn sóng chuyển dịch
Một quốc gia được xem là trung tâm chế tạo (TTCT) của một châu lục hay thế giới phải là quốc gia tập trung nhiều nhà máy, công xưởng sản xuất lớn với những công nghệ cao, có hàng hoá xuất khẩu chiếm tỉ trọng lớn so với các nước khác ở một hoặc nhiều ngành công nghiệp. Vì vậy, không phải quốc gia nào cũng có thể phát triển thành TTCT của thế giới.
Những quốc gia nào có lợi thế về nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ cùng với những chính sách của chính phủ tạo thuận lợi cho các công tư nước ngoài sẽ có cơ hội phát triển thành TTCT. Điển hình là Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ.
Chủ tịch MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân cho biết, bên cạnh nhiều thành tựu sau 30 năm đổi mới, cần đặt câu hỏi trong thời gian tới thách thức như thế nào, trong đó có nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng năng suất lao động.
“Đánh giá của một số tổ chức quốc tế về việc Việt Nam có thể trở thành trung tâm chế biến, chế tạo mới gợi ý cho chúng tôi cần phải làm rõ thêm chúng ta có tiền đề gì, lợi thế gì để hướng đến xu thế phát triển này. Chúng tôi cũng nhận định nhu cầu chuyển dịch trung tâm chế tạo thế giới như thế nào, Việt Nam có điều kiện chuyển dịch ra sao”.
“Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là cần đặt câu hỏi vì sao các nhà đầu tư có thể chuyển dịch từ nước này sang nước khác. Vấn đề thứ hai cần đặt ra là người ta đi đâu, vì sao họ đến các nước đó? Nếu việc chuyển dịch có tính tất yếu 20-30 năm, Việt Nam muốn tham gia thì có điều kiện gì, gặp khó khăn gì?
Thống kê cho thấy, 63% xuất khẩu của Việt Nam là hàng chế biến, 56% là đầu tư nước ngoài và đến nay là về chế biến, chế tạo. Đó là những tín hiệu thuận lợi. Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã kịp nắm bắt cơ hội để vươn lên trở thành những nền kinh tế lớn hàng đầu khu vực nhờ xây dựng và phát triển thành công những trung tâm chế biến, chế tạo của thế giới”, ông Nguyễn Thiện Nhân chỉ rõ.
Cơ hội gắn liền thách thức
Theo Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình, công nghiệp chế biến chế tạo thu hút được sự quan tâm từ doanh nghiệp, đặc biệt khối FDI. Tỷ trọng ngành này tăng dần theo từng năm. Năm 2011 chiếm 50%, 2012: 70%, 2014: 72%.
80/101 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực này.
trung tâm chế tạo mới, Chủ tịch MTTQ, Nguyễn Thiện Nhân
Tuy nhiên, ông Bình nhấn mạnh, sự phát triển của DN thuộc lĩnh vực này không đồng đều, chủ yếu là FDI trong khi DN nội còn hạn chế.
Bà Victoria Kwakwa đánh giá, tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam còn khá thấp, điều này cho thấy sự liên kết chuỗi giá trị toàn cầu với các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế và điều đó chứng minh sự yếu kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Do vậy, bà cho rằng, cần có chiến lược đồng bộ để thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến chế tạo hơn nữa, như đầu tư vào cơ sở vật chất, hạ tầng, logistic, chất lượng nhân lực và đặc biệt là đầu tư vào thể chế thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này hơn nữa, để đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế biến chế tạo của thế giới.
Ông Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho hay, làn sóng chuyển dịch từ Trung Quốc sang Đông Nam Á cho thấy nước này không còn được xem là công xưởng chính của thế giới. Trong khi đó, dòng vốn Nhật Bản đang chuyển mạnh vào Việt Nam. Có đến 60% doanh nghiệp Nhật Bản được  khảo sát tại “Diễn đàn xúc tiến đầu tư thương mại Việt Nam - Nhật Bản 2015” cho biết sẽ chuyển dòng vốn đầu tư từ các nước châu Á sang Việt Nam trong năm nay và những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, theo một nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, hiện nay, thị phần toàn cầu của Trung Quốc về các sản phẩm cần nhiều lao động truyền thống như dệt, may mặc và giày dép vẫn còn cao so với các đối thủ cạnh tranh từ các khu vực đang phát triển, dù có sự tăng lên gần đây cuả các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình trong EAP (Việt Nam và Indonesia), cũng như ở Nam Á (Ấn Độ và Bangladesh) và châu Âu, Trung Á (Thổ Nhĩ Kỳ).
Cần nhiều chính sách để cụ thể hoá cơ hội
Ý tưởng để Việt Nam trong 10 đến 15 năm tới trở thành một trung tâm chế biến và chế tạo mới của thế giới, theo KS. Đào Phan Long, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam  là một ý tưởng rất táo bạo.
Nếu thực hiện được việc này thì Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia phát triển. Nhưng để ý tưởng thành hiện thực, Nhà nước phải có bổ sung kịp thời nhiều chính sách đồng bộ và quy hoạch cụ thể nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mạnh mẽ hơn nữa.
trung tâm chế tạo mới, Chủ tịch MTTQ, Nguyễn Thiện Nhân
Theo Ths. Trần Thị Thành, Đại học Công nghệ TP. HCM chỉ ra những hạn chế: Mặc dù Nhà nước không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng vẫn còn đó sự nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, những thủ tục hành chính rườm rà, sự thiếu minh bạch trong quản lý.
Muốn trở thành một trung tâm chế tạo của thế giới, theo Chủ tịch MTTQ Nguyễn Thiện Nhân, phải tiếp tục giữ ổn định chính trị, kinh tế, không ngừng đổi mới về khoa học và công nghệ. Đặc biệt cần khắc  phục những chính sách chưa được thực hiện tốt để tạo động lực sáng tạo nhiều hơn nữa trong tương lai.
“Mức thu nhập của chúng ta nếu so sánh với Trung Quốc, Nhật Bản thì thấp hơn rất nhiều nhưng thanh niên của chúng ta có tinh thần sáng tạo không ngừng, đặc biệt trong ứng dụng công nghệ”. Ông tin tưởng KHCN cũng như giáo dục sẽ được đầu tư nhiều hơn nữa để góp phần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp chế tạo, chế biến tại Việt Nam.
Sau hội thảo này, Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân mong muốn các bên liên quan sẽ phối hợp với nhau để đề xuất với Chính phủ về việc Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới và tìm các giải pháp phù hợp để Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội này.
Từ Lương - Ảnh: Hoàng Long

Tin yêu, một lòng theo Đảng, Bác Hồ, Cách mạng Việt Nam nhất định thành công

Tin yêu, một lòng theo Đảng, Bác Hồ, Cách mạng Việt Nam nhất định thành công

Phương Duy
Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng; đối với mỗi quần chúng của Đảng là phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần làm cho Đại hội XII của Đảng thành công tốt đẹp và sớm đưa Nghị quyết của Đại hội XII vào cuộc sống. Vì vậy, chúng ta phải làm việc hết sức mình, làm việc bằng cả trái tim, khối óc và bầu nhiệt huyết cách mạng, bằng ý thức tinh thần trách nhiệm, nghị lực và những hành động thiết thực, cụ thể, thật hiệu quả để xây dựng và bảo vệ Đảng, không được để các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị phá hoại Đảng, làm cho Đảng bị tổn thương, bị chia rẽ thành bè phái hoặc hình thành các phe nhóm, mất sức chiến đấu. Do đó, trong bất luận điều kiện hoàn cảnh nào, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện phê bình và tự phê bình, thường xuyên củng cố sự đoàn kết, nhất trí cao trong Đảng, giữ cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự trung thực, gương mẫu về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống; thực hiện tốt những điều quy định đảng viên không được làm; lấy lời căn dặn của Bác Hồ trong Di chúc làm phương châm hành động cách mạng: cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Vấn đề nóng hổi hiện nay là chọn nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp, nhất là nhân sự Đại hội XII của Đảng. Phải hết sức cẩn trọng, sáng suốt, thực hiện tốt chủ trương, quan điểm của Đảng về vấn đề này. Trong công tác chọn lọc, giới thiệu nhân sự cần thực hiện đúng quy trình, tiêu chuẩn cán bộ mà Đồng chí Tổng Bí thư của Đảng đã khẳng định tại Hội nghị Trung ương 11, khóa XI vừa qua; trong đó đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu con người, phẩm chất và năng lực; tìm những cán bộ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân; có phẩm chất và năng lực lãnh đạo, quản lý tốt, có uy tín cao; có lòng nhân hậu, có tri thức khoa học, kỹ thuật…tốt; tức là phải có đủ đức, có đủ tài để giao những trọng trách đặc biệt quan trọng mà Đảng và Nhân dân tin cậy, phó thác; họ sẽ đảm đương, gánh vác.
Nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo luận thuyết của V.I. Lênin về xây dựng đảng mácxít kiểu mới trong bối cảnh tình hình hiện nay ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam; đặc biệt là đối với việc nghiên cứu, quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay; suy ngẫm về những điều V.I. Lênin căn dặn đối với việc xây dựng đảng mácxít kiểu mới của giai cấp công nhân, thiết nghĩ, mỗi cán bộ, đảng viên cần đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những di huấn của V.I. Lênin về xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh. Đó là những bài học kinh nghiệm quý báu đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.
Kể từ sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, chúng ta đang khẩn trương chuẩn bị cho đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thành công, tiến tới bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội khóa XIV, trong các đợt sinh hoạt chính trị này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đều sôi nổi thảo luận các vấn đề quốc kế, dân sinh; đặc biệt có nhiều nội dung liên quan đến con đường đi tới, vận mệnh quốc gia, dân tộc, đến Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Quân đội ta; hai trong các vấn đề đó là nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các thế lực thù địch đang cố tình sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá ta quyết liệt cả hai vấn đề nêu trên. Điều cũng có nghĩa là chúng đã và đang run sợ trước sức mạnh đoàn kết, thống nhất của nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; niềm tin và sự lựa chọn đúng đắn con đường đi tới của chúng ta.
 Hãy vững tin vào mục tiêu, lý tưởng, con đường đã lựa chọn; tuyệt đối không thể mắc mưu kẻ thù, không để rối loạn, sai lầm về đường lối chính trị, kiên quyết đập tan mọi mưu đồ gây rối, phá vỡ sự thống nhất nền tảng tư tưởng trong Đảng, Nhà nước và trong xã hội ta. Sự nghiệp của chúng ta do chúng ta quyết định, không có thế lực thù địch nào có thể cản bước, ngăn đường. Kiên định và bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng là lòng tin, niềm tự hào và trách nhiệm thiêng liêng của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chúng ta cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn giá trị và ý nghĩa những luận điểm của V.I. Lênin đối với cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay, nhất là cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, luôn luôn xứng đáng là một đảng “đạo đức”, một đảng “văn minh”; là nhân tố lãnh đạo đóng vai trò quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình hình mới./.