Friday, December 30, 2016

Nạn đói năm 1945 và sự thật lịch sử (Tiếp theo và hết)

Kỳ 2: Từ khi có mặt ở Đông Dương, ngoài các chính sách tô thuế, Nhật còn đưa ra “chương trình kinh tế chỉ huy” để thực hiện một cách triệt để chủ trương phát-xít của họ. Ngày 6-5-1941, Nhật buộc Pháp ký một Hiệp ước kinh tế yêu cầu hằng năm Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật.
Theo tài liệu của Viện Sử học thì: năm 1941 là 700.000 tấn gạo; năm 1942 là 1.050.000 tấn gạo và 45 tấn bột gạo; năm 1943 là 1.125.904 tấn; năm 1944, mặc dù mất mùa song vẫn phải cung cấp cho Nhật 900.000 tấn. Ngoài ra, Nhật còn cho Pháp xuất khẩu gạo sang các nhượng địa của Pháp ở Trung Quốc. Tham luận của bác sĩ Ngô Văn Quỹ cho biết, ngay trong năm 1945, tức lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm, vậy mà theo các tài liệu chính thức của Pháp - Đông Dương đã thu hoạch được 2.700.000 tấn thóc, ước tính nhu cầu của nhân dân chỉ là 1.600.000 tấn; vẫn còn dư ra 1.100.000 tấn. Và ông khẳng định “Thừa thóc, thừa gạo mà để dân chết đói đến 2 triệu người, trước lịch sử, đây quả là một tội ác “trời không dung, đất không tha” (Nỗi đau lịch sử: nạn đói 1945, Sđd, tr.26).
Rất nhiều tài liệu nghiên cứu đều chỉ ra “đích danh thủ phạm” là phát-xít Nhật và đồng phạm là thực dân Pháp. Giáo sư Văn Tạo cũng cho biết: “Trong cuộc trao đổi với tôi ở Tokyo, ông Yuuji đã có lý khi nói: Nhật - Pháp tuy thống nhất với nhau vơ vét thóc gạo nhân dân Việt Nam, nhưng chúng vẫn chuẩn bị diệt nhau. Việc Pháp thu thóc để cung cấp cho Nhật là có, nhưng không phải không lợi dụng lấy thóc đó để dự trữ chống Nhật” (Văn Tạo - Furuta Motoo, Sđd, tr.693). Và Giáo sư kết luận: “Thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam năm 1945 là Nhật - Pháp, mà Nhật là kẻ chịu trách nhiệm chính” (Văn Tạo - Furuta Motoo, Sđd, tr.699).
Tác giả Yoshizawa Minami (Y-ô-si-da-oa Mi-na-mi) cũng cho biết “ông Kawai, đảm nhiệm công việc giám sát chuyển gạo từ nam ra bắc qua tỉnh Nam Định, đồng thời là quản lý chung về gạo dự trữ, phân phối trong tỉnh, nói có những nơi vẫn còn gạo chất như núi trong kho quân đội. Không những thế, tại một nhà thờ Thiên chúa giáo trong tỉnh gạo đầy ắp trong kho. Ông đã thuyết phục cán bộ đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng họ không nghe” (Nỗi đau lịch sử: nạn đói 1945, Sđd, tr.56). Còn nghiên cứu của Giáo sư Văn Tạo cho rằng, Thống sứ Bắc Kỳ chủ ý gây ra nạn đói này cho Việt Nam để thực hiện mục đích kép là chính trị và kinh tế. Mục đích chính trị là “hãm bớt nhiệt tình yêu nước” của nhân dân Việt Nam. Mục đích kinh tế là để một vài công ty của Pháp, Nhật mua gạo giá rẻ và bán giá cắt cổ cũng như để dễ dàng tuyển mộ cu-ly cho các đồn điền, hầm mỏ.
Vậy ai đã cứu giúp nhân dân Việt Nam ra khỏi thảm cảnh này? Xin thưa, không phải Pháp, chẳng phải Nhật, cũng chẳng phải triều đình nhà Nguyễn hay Chính phủ Trần Trọng Kim đầu năm 1945 mà là Việt Minh.
Ngày 2-9-1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam DCCH ra mắt quốc dân đồng bào. Một ngày sau đó, ngày 3-9-1945, Chính phủ họp phiên đầu tiên. Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là cứu đói để vực dậy một dân tộc đã và đang trải qua nạn đói kinh hoàng. Trong phiên họp đầu tiên này, Chính phủ thống nhất với đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sáu nội dung cấp bách phải thực hiện, trong đó nội dung đầu tiên chính là cứu đói.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Hiện nay những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Theo ý tôi, có sáu vấn đề. Một là, nhân dân đang đói. Ngoài những kho thóc của Pháp, Nhật vơ vét của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích để trồng thầu dầu, đay và những thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến tranh của chúng (…). Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo (…). Chúng ta phải làm thế nào để cho họ sống. Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất”. (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr.7-8). Một trong những việc làm đặc biệt ý nghĩa của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam DCCH là tổ chức lạc quyên cứu đói để kịp thời dập tắt nạn đói. Với quan điểm “chống đói cũng như chống ngoại xâm”, ngày 28-9-1945, Báo Cứu quốc đăng thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào cả nước kêu gọi mọi người nêu cao tinh thần “nhường cơm, sẻ áo” cứu giúp đồng bào: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr.31).
Trong cuộc vận động này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người gương mẫu thực hiện đầu tiên và triệt để, theo đó, nếu những buổi dùng cơm với khách trùng vào ngày nhịn ăn, Người tự động nhịn bù vào ngày hôm sau. Tại buổi khai mạc lễ phát động phong trào cứu đói được tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem phần gạo nhịn ăn của mình đóng góp trước tiên. Tiếp đó, Chính phủ lâm thời Việt Nam DCCH còn áp dụng ngay một số biện pháp cụ thể như cho phép vận chuyển thóc gạo; nghiêm trị những kẻ đầu cơ, tích trữ thóc gạo; cấm dùng gạo vào các công việc chưa thật sự cần thiết như nấu rượu, làm bánh; cấm xuất khẩu gạo, ngô, đậu; cử một ủy ban lo việc vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc (công việc này bị đình trệ sau đó vì thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ).
Ngày 2-11-1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố - một nhân sĩ nổi tiếng - quyết định thành lập Hội Cứu đói. Hội Cứu đói được tổ chức xuống tận các làng. Ngày 28-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh thiết lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế. Ngoài Bộ Cứu tế, một số bộ khác cũng có nhiệm vụ cứu tế và tiếp tế. Hưởng ứng lời kêu gọi tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua cứu đói đã diễn ra rộng khắp trên cả nước với rất nhiều sáng kiến, cách làm sáng tạo như tổ chức “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm nhịn ăn”, “Đoàn quân tiễu trừ giặc đói”. Từ đó hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước đóng góp, chia sẻ với đồng bào đang chịu thảm họa của nạn đói, góp phần cứu giúp kịp thời.
Cùng với quá trình khẩn cấp cứu đói, để bảo đảm giải quyết căn cơ và triệt để nạn đói, Chính phủ phát động toàn dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Trong tháng 10 và 11 năm 1945, Chính phủ ban hành nghị định giảm 20% thuế ruộng đất, miễn thuế hoàn toàn cho những vùng lụt. Bộ Quốc dân Kinh tế ra thông tri quy định việc kê khai số ruộng đất vắng chủ, số ruộng công và ruộng tư không làm hết, tạm cấp cho nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng.
Ngày 19-11-1945, Chính phủ thiết lập Ủy ban Trung ương phụ trách vấn đề sản xuất. Nhiều chính sách đã được triển khai đồng bộ lúc này như việc ra báo để hướng dẫn nhân dân sản xuất, cho nhân dân vay thóc, vay tiền để sản xuất, cử cán bộ thú y về nông thôn chăm sóc gia súc, gia cầm, chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Phong trào tăng gia, sản xuất diễn ra sôi nổi trong khắp cả nước kể từ Chủ tịch, Chính phủ đến mọi cán bộ cao cấp của Đảng ngoài giờ làm việc chính thức đều tham gia. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, phong trào tăng gia sản xuất đã thu được kết quả to lớn. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục, nạn đói được đẩy lùi, đời sống của nhân dân, đặc biệt là nông dân dần ổn định.
Chỉ trong năm tháng từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 5 năm 1946, sản lượng lương thực, chủ yếu là màu, đạt tương đương 506.000 tấn lúa, đủ bù đắp số lương thực thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Đến hết năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Đó cũng là điều mà ngày 2-9-1946, tại lễ kỷ niệm một năm độc lập - Quốc khánh 1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp - khi ấy là Chủ tịch quân sự, Ủy viên trong Chính phủ liên hiệp, tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ”.
Trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, nhà sử học Lê Thành Khôi viết về các chính sách và việc đã làm của Chính phủ mới để khắc phục nạn đói như sau: “Một nạn đói mới đang là mối đe dọa cận kề nhất… Nhà nước tung ra một chiến dịch toàn quốc với khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất” và “Không để hoang một tấc đất, một cánh tay nhàn rỗi”. Một nghị định được ban hành sẽ trao đất hoang cho tất cả những ai có thể khai thác. Nỗ lực của mọi người và sự thi đua yêu nước đã dựng lại các con đê, tăng gia sản xuất các hoa màu phụ: khoai lang, ngô, sắn, đậu nành; vụ gặt tháng 5 đảm bảo lương thực cho thời gian giáp hạt” (Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới, H.2014, tr.564).
Trong hồi ký của mình, cụ Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Tư pháp của nước Việt Nam DCCH đã đưa vào phần phụ lục nội dung bài viết của Hoàng Văn Đức, Giám đốc Nha Nông chính Bắc Kỳ với tựa đề “Hai thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Theo Hoàng Văn Đức, hai thắng lợi đó là Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 và chiến dịch chống nạn đói cuối năm 1945 đầu năm 1946 với dòng thật xúc động: “Những người đó đã chiến thắng trên đồng ruộng. Động lực giải phóng của Mặt trận Việt Minh, dân tộc Việt Nam nắm vững chủ quyền của mình. Cách mạng đã thắng nạn đói” (Vũ Đình Hòe, Hồi ký, NXB Hội Nhà văn, H.2004, tr.1052)…
Dù thủ phạm gây nên thảm cảnh này cho dân tộc Việt Nam 70 năm trước đã quá rõ ràng, nhưng với tinh thần hòa hiếu và yêu chuộng hòa bình, nhân dân Việt Nam nhất quán chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Nhưng chúng ta khẳng định “gác lại quá khứ” không có nghĩa là lãng quên lịch sử, càng không thể đồng tình mà phải vạch mặt những kẻ lợi dụng lịch sử để xuyên tạc, bịa đặt nhằm vu khống Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Thursday, December 29, 2016

Trao giải cuộc thi viết về chủ quyền biển đảo dành cho thanh niên

Tối 28/12, tại Hà Nội, Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Lễ trao giải Cuộc thi viết “Thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam”. Đến dự có bà Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương.
Cuộc thi viết “Thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam” dành cho đối tượng người Việt Nam đang sinh sống, học tập và công tác ở nước ngoài có độ tuổi từ 16 - 35. Cuộc thi được tổ chức từ tháng 7 - 12/2016. Trong thời gian diễn ra cuộc thi, Ban tổ chức đã nhận được 202 bài dự thi, gửi về từ các nước, gồm: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Phần Lan… Hầu hết các tác phẩm dự thi đều có nội dung phong phú, hình thức trình bày sinh động, phù hợp với thể lệ của cuộc thi. 
trao giai cuoc thi viet ve chu quyen bien dao danh cho thanh nien vn hinh 1
Bà Trương Thị Mai trao Bằng khen cho Thí sinh đạt giải cuộc thi.
Tại lễ trao giải, Ban Tổ chức đã trao 1 giải Nhất cho tác phẩm “Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về biển đảo Việt Nam” của 2 tác giả Nguyễn Đình Phú và Lê Quốc Chiến thuộc nhóm VietData (Hội thanh niên, sinh viên Việt Nam tại Hoa Kỳ); 2 giải Nhì cho tác phẩm “Đóng góp ý kiến về vấn đề nước sạch, rau xanh và môi trường các quần đảo tuyến ngoài” của tác giả Đỗ Cao Sơn (Hội viên Việt Nam tại Hàn Quốc) và tác phẩm “Một số giải pháp nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển kinh tế biển xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển” của tác giả Bùi Minh Dũng (sinh viên tại Cộng hòa liên bang Nga).
Phát biểu tại buổi lễ, ông Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông nhấn mạnh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân; trong đó, thanh niên luôn được xem là vai trò xung kích quan trọng. 
"Trước những diễn biến hết sức phức tạp ở biển Đông như hiện nay, mỗi thanh niên Việt Nam cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, hiểu đúng, hiểu rõ các quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về giải quyết các vấn đề trên biển Đông, từ đó có nhận thức đúng, đầy đủ, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lôi kéo, kích động, gây mất ổn định xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; kiên quyết giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy đất nước ngày càng hội nhập và phát triển" Bộ trưởng Trương Minh Tuấn nói thêm.
Tại Lễ trao giải, các tác phẩm đạt giải được nhận Bằng khen của Bộ Thông tin và Truyền thông; Bằng khen của Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Giấy chứng nhận của Ban Tổ chức Cuộc thi và phần thưởng tiền mặt. Đặc biệt, các tác giả đoạt giải cao (Nhất, Nhì, Ba) sẽ tham gia đoàn công tác của Bộ Thông tin và Truyền thông  ra thăm quân và dân huyện đảo Trường Sa./.
Nguyễn Hiền/VOV

Triển lãm Hoàng Sa, Trường Sa ở Bắc Kạn

Ngày 29/12, tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Bộ TT&TT phối hợp với UBND tỉnh Bắc Kạn khai mạc triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”.
Triển lãm trưng bày nhiều tư liệu, văn bản, hiện vật, ấn phẩm và gần 100 bản đồ được tập hợp các nguồn tư liệu đã được công bố từ trước đến nay của các nhà nghiên cứu, học giả trong nước và quốc tế.
trien lam hoang sa truong sa o bac kan hinh 1
Người dân, học sinh Bắc ạn quan tâm đến triển lãm Trường Sa, Hoàng Sa
Đáng chú ý, có 34 tập bản đồ do Trung Quốc xuất bản và phát hành chính thức qua các thời kỳ lịch sử.
Tư liệu này cho thấy rõ, quần đảo Trường Sa- Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Bạn Vũ Diệu Ly, học sinh trường THPT chuyên Bắc Kạn chia sẻ: “Em thấy đây là một chương trình rất có ý nghĩa. Qua chương trình em được biết thêm nhiều chứng cứ và minh chứng rõ ràng về khu vực cũng như hải phận biển đảo Việt Nam và nhiều nét văn hoá Việt Nam về biển đảo”.
Ngoài ra, triển lãm còn trưng bày những hình ảnh, tư liệu, hiện vật thể hiện sự quan tâm của Đảng - Nhà nước, Quân đội và các tầng lớp nhân dân Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa và trách nhiệm chung sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quê hương.
trien lam hoang sa truong sa o bac kan hinh 2
Học sinh tìm hiểu những hình ảnh về chủ quyền biển đảo quốc gia
Đến nay, Bộ TT&TT phối hợp tổ chức 74 cuộc triển lãm tại 51 tỉnh, thành phố, 10 đảo và 13 đơn vị lực lượng vũ trang trong cả nước.
Sau cuộc triển lãm này, tỉnh Bắc Kạn sẽ tiếp nhận số hiện vật, bản đồ trên và tổ chức trưng bày tại các địa phương khác để cán bộ và nhân dân đến tham quan, nghiên cứu./.

Chủ tịch nước: Tin tưởng vào sự đồng lòng, quyết tâm của toàn dân tộc

ĐỨC DŨNG (TTXVN/VIETNAM+) 
Chủ tịch nước Trần Đại Quang. (Ảnh: Nhan Sáng/TTXVN)

Một góc khu chung cư Trung Hòa-Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)

Một số thành tựu đối ngoại của Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người 2016

22:02 29/12/2016

Năm 2016 đánh dấu nhiều thành tựu đối ngoại của Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ 3 năm thành viên Hội đồng nhân quyền Liên Hợp quốc (2014-2016)
Với vai trò là thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp quốc, Việt Nam đã đóng góp cách tiếp cận công bằng, toàn diện trong xử lý các vấn đề về quyền con người; Xử lý hài hòa quan hệ với các nước, được các nước đánh giá cao; Góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đảm đương tốt vai trò thành viên ECOSOC, Hội đồng Chấp hành UNESCO (2013-2018)
Việt Nam đã tham gia đóng góp tích cực vào các hoạt động của Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), đặc biệt là việc triển khai Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững; Tích cực đóng góp, thúc đẩy các vấn đề giáo dục, văn hóa tại Hội đồng Chấp hành UNESCO.
Việt Nam chủ động giới thiệu và thúc đẩy các sáng kiến về quyền con người tại các diễn đàn đa phương.
 (
Ảnh: Bộ ngoại giao cung cấp)
Chủ động giới thiệu và thúc đẩy các sáng kiến về quyền con người tại các diễn đàn đa phương
- Chủ trì giới thiệu Nghị quyết về tác động của biến đổi khí hậu và quyền trẻ em tại Hội đồng nhân quyền Khóa 32 tháng 6/2016, được thông qua bằng đồng thuận với hơn 117 nước đồng bảo trợ.
- Tổ chức các tọa đàm thúc đẩy môi trường làm việc cho người khuyết tật; bảo đảm môi trường làm việc an toàn cho người lao động trên biển; giáo dục phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái.
- Cùng với Mỹ tổ chức trình chiếu, giao lưu với đoàn làm phim “Chau, beyond the lines” (về cuộc đời họa sĩ nhiễm chất độc da cam Lê Minh Châu) tại Hội nghị “Công ước về quyền của người khuyết tật”.
Tham dự các Hội nghị Cấp cao về quyền con người
Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh là khách mời chính tại Hội nghị thượng đỉnh Phụ nữ toàn cầu lần thứ 26 tại Ba Lan, làm diễn giả chính tại lễ khai mạc Khóa họp thường kỳ lần thứ 32 Hội đồng nhân quyền, diễn giả chính tại Phiên họp cấp cao ECOSOC.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tham dự và phát biểu tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp quốc về HIV/AIDS (tháng 6/2016).
(Ảnh: Bộ Ngoại giao)
Duy trì hiệu quả đối thoại song phương về quyền con người
Năm 2016, Việt Nam có Đối thoại Nhân quyền với Mỹ (tháng 4/2016), Úc (tháng 8/2016), Thụy Sỹ (tháng 10/2016) và EU (tháng 12/2016).
Các cuộc đối thoại trên tinh thần cởi mở, thẳng thắn, góp phần tăng cường hiểu biết, thu hẹp khác biệt, góp phần thúc đẩy quan hệ song phương.
Đóng góp tích cực tại các diễn đàn ASEAN về quyền con người
- Đóng góp kiện toàn bộ máy hoạt động của Ủy ban Liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR); Tham gia xây dựng, triển khai các Kế hoạch Công tác 5 năm của AICHR ( 2016-2020) và Chương trình ưu tiên năm 2016 của AICHR.
- Chủ trì tổ chức Hội thảo AICHR về Chiến lược Tuyên truyền hiệu quả về Phòng chống buôn bán người (Nha Trang, 6/2016); và Phiên họp đặc biệt của AICHR (Hà Nội, 10/2016).
- Tích cực tham gia Ủy ban ASEAN về Thúc đẩy và Bảo vệ Quyền của Phụ nữ và Trẻ em (ACWC) và Ủy ban Phụ nữ ASEAN (ACW)./.
Đỗ Thoa

9 tồn tại, hạn chế và 10 thành tựu nổi bật năm 2016 của đất nước

Sáng 28/12, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chính phủ tổ chức Hội nghị trực tuyến với các địa phương triển khai nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2017; họp Chính phủ thường kỳ tháng 12/2016.
Thủ tướng nhấn mạnh, hội nghị có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chính phủ và các địa phương sẽ cùng thảo luận, phân tích, làm rõ để thống nhất nhận định, đánh giá tình hình năm 2016, những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế, yếu kém và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2017.
Trước khi vào thảo luận, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nêu 10 kết quả nổi bật và 9 tồn tại, hạn chế của đất nước trong năm 2016.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu không báo cáo nhiều về thành tích, mà cần tập trung vào các khó khăn, nêu giải pháp tháo gỡ. ảnh: VGP.
10 kết quả nổi bật
Một là kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm; tăng trưởng kinh tế khá (CPI tăng 4,74%; GDP tăng 6,21%, cao hơn các nước đang phát triển ở châu Á 5,5%, khu vực Đông Nam Á 4,5%).
Đây là kết quả rất đang ghi nhận trong bối cảnh ngành khai khoáng và nông nghiệp gặp khó khăn rất lớn (mất 1% GDP do thiệt hại nông nghiệp, riêng vụ hải sản chết ở miền Trung làm thiệt hại 0,3% GDP, sản lượng dầu thô giảm 1 triệu tấn).
Tín dụng tăng khoảng 17%; dự trữ ngoại hối đạt 41 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Thu ngân sách Nhà nước đạt mục tiêu đề ra. Tổng đầu tư toàn xã hội 33% GDP; xuất khẩu tăng 8,6%, xuất siêu 2,68 tỷ USD.
Hai là kết quả phát triển doanh nghiệp khởi sắc. Lần đầu tiên có trên 110.000 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký trên 891.000 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay, tăng 16,2% về số doanh nghiệp và 48,1% về vốn. Có gần 27.000 doanh nghiệp trở lại hoạt động.
Ba là thu hút đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục.
Vốn FDI thực hiện đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9%, cao nhất từ trước đến nay. Đến 26/12, cả nước có 2.556 dự án FDI mới với tổng vốn đăng ký 15,18 tỷ USD.
Tính chung, tổng vốn đăng ký mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần đạt 24,4 tỷ USD, tăng 7%.
Bốn là khu vực dịch vụ, du lịch khởi sắc. Khu vực dịch vụ tăng 6,98%; thu hút trên 10 triệu lượt khách quốc tế, cao nhất từ trước đến nay.
Năm là môi trường kinh doanh được cải thiện. Việt Nam xếp thứ 82/190, tăng 9 bậc so với năm 2015.
Sáu là xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực. Đến nay có 30 đơn vị cấp huyện và 2.235 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt trên 25%.
Bảy là các lĩnh vực xã hội có nhiều tiến bộ. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 8,5%.
Tạo việc làm cho trên 1,6 triệu lượt người. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế lần đầu tiên đạt trên 81%…
Trong lĩnh vực thể thao, lần đầu tiên Việt Nam đạt Huy chương Vàng tại Olympic.
Tám là công tác xây dựng pháp luật được chú trọng. Ban hành 162 nghị định quy định chi tiết các luật, nhất là Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp; không còn nợ đọng văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Chín là tập trung phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc trong phòng chống thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường; đã có chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, xử lý nghiêm các vụ phá rừng.
Trong bối cảnh khó khăn, chủ trương của Chính phủ là không để người dân nào bị đứt bữa, bệnh tật trong thiên tai.
Mười là chỉ đạo quyết liệt xử lý các vấn đề quan trọng, cấp bách, bức xúc, sự cố môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung, vệ sinh an toàn thực phẩm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyết tâm chống tham nhũng, lợi ích nhóm; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí.
“Có thể nói khái quát, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, niềm tin thị trường, niềm tin xã hội tăng lên mạnh mẽ”, Thủ tướng nói.
Kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng ổn định.
9 tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, Thủ tướng cũng thẳng thắn chỉ ra 9 mặt tồn tại, hạn chế nổi bật trong năm 2016:
Một là ngành công nghiệp khai khoáng giảm mạnh. Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng giảm, kim ngạch xuất khẩu dầu thô giảm 36,7% do giá dầu thô giảm mạnh.
Hai là thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt nghiêm trọng.
Ba là sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng, nhất là môi trường biển ở 4 tỉnh miền Trung.
Bốn là các dự án nghìn tỷ thua lỗ, mất vốn.
Năm là các ngân hàng thương mại yếu kém, mất vốn, rủi ro cao, trong đó có một số ngân hàng được mua lại với giá 0 đồng.
Sáu là xảy ra nhiều vụ cháy nổ, tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Bảy là nhiều vụ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xảy ra.
Tám là có các sai phạm trong công tác cán bộ như vụ Trịnh Xuân Thanh...
Chín là xếp hạng quốc tế về năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo giảm (xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu giảm 4 bậc, ở vị trí 60; Việt Nam đứng thứ 6 trong các nước ASEAN.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2016 giảm 7 bậc, xếp hạng 59 trong tổng số 128 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á).
Thủ tướng cho rằng, đây là đánh giá sơ bộ, trong quá trình thảo luận, các đại biểu có thể nêu ra các bất cập, tồn tại khác.
Quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm chính, hành động
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành đã chỉ đạo quyết liệt nhiều giải pháp, tập trung hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Nhấn mạnh quyết tâm xây dựng Chính phủ hành động, Thủ tướng đã thành lập Tổ công tác để kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ mà Chính phủ, Thủ tướng giao, từ đó, tác động tích cực tới các bộ, ngành, địa phương.
Tổng số nhiệm vụ được giao là 10.205 nhiệm vụ, đã hoàn thành 6.367 nhiệm vụ, chưa xong 3.838 nhiệm vụ (trong đó có 3.656 nhiệm vụ đang trong thời hạn giải quyết). Như vậy, số nhiệm vụ quá hạn là 182 nhiệm vụ.

Thủ tướng nhấn mạnh: “Chúng ta thống kê từng việc như vậy để xem chúng ta nói và làm đến đâu”.
Thủ tướng cho biết, Chính phủ gương mẫu trong triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Chính phủ đã thảo luận, thống nhất quyết tâm về công tác này tại một phiên họp vừa qua.
Thủ tướng cũng đề nghị các đại biểu tham dự hội nghị tập trung thảo luận, đánh giá đúng kết quả 2016, nhận định bối cảnh, tình hình năm 2017 và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2017.
Không cần báo cáo, đánh giá nhiều về thành tích, kết quả đạt được; tập trung đi thẳng vào những vấn đề khó khăn, vướng mắc... làm sao tạo được chuyển biến rõ nét, hiệu quả trong thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp đề ra cho năm 2017.
Ngọc Quang

Thành tựu và kinh nghiệm sau 30 năm đổi mới quân sự, quốc phòng

16/12/2016 16:23

Sáng 16-12, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng (BQP) tổ chức Hội thảo khoa học, với chủ đề: “30 năm đổi mới quân sự, quốc phòng - Thành tựu và kinh nghiệm (1986 - 2016)”. Đoàn chủ tịch chủ trì hội thảo gồm các đồng chí: Trung tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng BQP, Trưởng Ban Chỉ đạo Hội thảo; Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó trưởng ban Chỉ đạo hội thảo; Thiếu tướng Hồ Thanh Tự, Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tổng tham mưu; Thiếu tướng Trần Hoài Trung, Cục trưởng Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị); Thiếu tướng Nguyễn Văn Bạo, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Dự hội thảo có đại diện các ban, bộ, ngành Trung ương; đại biểu các cơ quan, đơn vị Quân đội; các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu lịch sử. Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước gửi lẵng hoa chúc mừng hội thảo.

Khẳng định sự đúng đắn của việc đổi mới tư duy
Phát biểu khai mạc, Trung tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, cách đây tròn 3 thập niên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có lĩnh vực quân sự, quốc phòng (QS, QP). Cùng với thời gian, chủ trương đổi mới về QS, QP tiếp tục được các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng (từ Đại hội VII đến Đại hội XII) nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện và trở thành bộ phận cấu thành quan điểm, đường lối đổi mới nhất quán của Đảng ta.
Trải qua 30 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng trên tất cả các mặt. Đặc biệt, trong lĩnh vực QS, QP, trên cơ sở điều chỉnh thế bố trí phòng thủ đất nước, chúng ta đã tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế lực lượng thường trực theo hướng tinh gọn, mạnh, đồng bộ, chính quy; xây dựng các khu vực phòng thủ (KVPT) tỉnh, thành phố vững chắc, tăng cường thế trận quốc phòng và an ninh (QPAN), xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 
Trung tướng Lê Chiêm phát biểu tại hội thảo.  

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, vững vàng chính trị tư tưởng, nỗ lực phấn đấu; thực hiện tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất; thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Những kết quả đạt được trên lĩnh vực QS, QP cùng với thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao đã góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; tạo động lực mới để chúng ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Báo cáo đề dẫn, Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa nêu rõ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam. Đây là một sự kiện lớn trong đời sống chính trị, đánh dấu bước phát triển mới về tư duy, nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở nước ta. Đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ tình hình quốc tế và trong nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới và kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Trong 30 năm đổi mới QS, QP dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước chúng ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng; đồng thời, cũng đúc kết ra nhiều vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc cần sớm tổng kết nhằm góp phần cung cấp lý luận khoa học cho Đảng, bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối lãnh đạo đất nước vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

  
Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, phát biểu tại hội thảo.  


Từng bước đổi mới hoàn thiện đường lối quân sự, quốc phòng
Tại hội thảo, Ban tổ chức đã nhận được 69 bài tham luận và phát biểu chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu, Thủ trưởng Tổng cục Chính trị, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị…, các tướng lĩnh, sĩ quan, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Với cách nhìn nhận, khách quan, toàn diện; trình bày khái quát, mạch lạc, lập luận chặt chẽ cùng nhiều sự kiện, số liệu sinh động, với độ tin cậy cao; các tham luận đã làm rõ quá trình thực hiện đường lối đổi mới QS, QP của Đảng từ Đại hội VI đến nay, những thành tựu trên lĩnh vực QS, QP đã đạt được trong 30 năm đổi mới là điều kiện, tiền đề quan trọng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Các tham luận khoa học gửi đến Hội thảo tập trung phản ánh nhiều khía cạnh, với nhiều vấn đề khác nhau mà chủ đề Hội thảo đặt ra. Những nội dung cơ bản đã góp phần minh chứng và khẳng định các luận điểm khoa học chủ yếu như: Đường lối QS, QP của Đảng Cộng sản Việt Nam - Vấn đề quyết định trước tiên đến thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đến nay, với vai trò là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, LLVT nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng đã có đóng góp to lớn vào những thành tựu chung của đất nước trong 30 năm đổi mới. Đó là, nắm chắc và dự báo đúng tình hình liên quan đến QS, QP; đến an ninh quốc gia; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách; nhất là tham mưu ra được Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Tham mưu cho Đảng và Nhà nước có đối sách phù hợp, xử lý kịp thời, linh hoạt, đúng đắn các tình huống phức tạp nhất là vấn đề Biển Đông, các vấn đề nhạy cảm về QS, QP, trong quan hệ đối nội và đối ngoại, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Góp phần làm rõ những nội dung quan trọng trên là tham luận của các đồng chí: Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng BQP; Thượng tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng...

Các đại biểu dự hội thảo. 

Góp phần tạo dựng môi trường hòa bình
Trong 30 năm tiến hành đổi mới, căn cứ vào tình hình thế giới, khu vực, trong nước và xu thế của thời đại, Đảng ta đã có nhận thức và đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có tư duy mới về QS, QP. Đó là, phát triển nhận thức từ tư duy quân sự đến tư duy quốc phòng; từ xác định “bạn”, “thù” đến tư duy biện chứng về “đối tượng”, “đối tác”; về xây dựng LLVT ba thứ quân, trong đó xây dựng Quân đội nhân dân theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, trong đó xác định một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân vững chắc, kết hợp kinh tế với QPAN; QPAN với kinh tế và đối ngoại… Đây là bước phát triển tất yếu và phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; là cơ sở chủ yếu chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ QS, QP trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng. Đề cập về vấn đề này, Đại tá, TS Lê Đức Hạnh, Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử quân sự thế giới (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam) dẫn chứng: “Sau khi gia nhập ASEAN, từ chỗ chỉ là quan sát viên, khách mời danh dự của hiệp hội, sau hơn 20 năm hoạt động, Việt Nam đã tham gia tất cả các cơ chế hợp tác QS, QP của khối: Cùng Phi-líp-pin soạn thảo Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC); xây dựng và triển khai cơ chế hoạt động của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM); Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+); Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Các sáng kiến mà Việt Nam đưa ra tại diễn đàn ADMM+ như: An ninh biển, gìn giữ hòa bình, chống khủng bố, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, quân y và hành động bom mìn nhân đạo không chỉ thúc đẩy quan hệ hợp tác trong nội khối, mà còn làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác chính trị - an ninh giữa ASEAN với các đối tác quan trọng hàng đầu thế giới, góp phần tạo dựng môi trường hòa bình, an ninh trong khu vực”.
Tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại
Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi chúng ta phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa, nhất là đối với các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại như: Hải quân, Phòng không - Không quân, Tác chiến điện tử, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ thuật và Cảnh sát biển; đồng thời, đẩy nhanh lộ trình thực hiện “từng bước hiện đại” ở các lực lượng khác. Tiếp tục nghiên cứu, lựa chọn những ngành, lĩnh vực quan trọng để đầu tư phát triển theo hướng hiện đại, nhằm tạo nên sức mạnh chiến đấu mới của Quân đội. Với nhận thức đúng đắn, với hành động khẩn trương, kiên quyết, trong những năm qua, chúng ta đã chủ động đối phó có hiệu quả với mọi âm mưu, hành động can thiệp, kích động bạo loạn, phá hoại, xâm lấn của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập chủ quyền bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc. Phân tích, luận giải làm rõ nội dung trên là tham luận các đồng chí: Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng, TS Lê Huy Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân; Chuẩn Đô đốc Phạm Hoài Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân chủng Hải quân; Trung tướng, PGS, TS Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng…
Nét nổi bật thời gian qua là, Quân đội thực hiện tốt Đề án tổ chức lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, có cơ cấu tổ chức phù hợp, thành phần các quân chủng, binh chủng cân đối, hợp lý; tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, đáp ứng yêu cầu phòng thủ đất nước trong tình hình mới. Với cách lập luận sắc bén dựa trên cơ sở nền tảng là những sự kiện, số liệu điển hình, minh chứng một cách thuyết phục, tham luận khoa học của các đồng chí: Trung tướng Trần Quang Phương, Ủy viên Trung ương Đảng, Chính ủy Quân khu 5; Trung tướng Võ Minh Lương, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7; Thiếu tướng Vũ Hải Sản, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 3; Trung tướng Nguyễn Duy Nguyên, Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ… đã góp phần luận giải làm rõ vấn đề trên.
Phát biểu bế mạc hội thảo, Trung tướng Lê Chiêm, nhấn mạnh, các ý kiến mang đến cuộc hội thảo lần này đã cung cấp nhiều tư liệu quý về đổi mới QS, QP. Từ đây, nhiều bài học kinh nghiệm được đúc kết có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ QS, QP, xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Sau cuộc hội thảo này, các tướng lĩnh, nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, BQP nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo nhiệm vụ QS, QP trong thời gian tới hiệu quả hơn. Trung tướng Lê Chiêm đề nghị các cơ quan tuyên truyền, thông tấn, báo chí tiếp tục tuyên truyền sâu rộng cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của những thành tựu và kinh nghiệm trong 30 năm đổi mới QS, QP, góp phần nâng cao vai trò trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.  
Bài và ảnh: DUY HỒNG – TIẾN ĐẠT