Wednesday, July 26, 2017

Đường lối đối ngoại của Việt Nam là nhất quán, rộng mở

(VOV5) - Những chuyến thăm cấp cao liên tục trong những ngày này và nhiều năm qua là kết quả của chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Việt Nam. 
Hàng loạt hoạt động đối ngoại được các nhà lãnh đạo Việt Nam tiến hành trong thời gian gần đây. Điều này nhằm tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác, nâng cấp quan hệ song phương với một số quốc gia, tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... do Đại hội lần thứ XII đề ra.
Đường lối đối ngoại của Việt Nam là nhất quán, rộng mở - ảnh 1
Chủ tịch nước Trần Đại Quang hội đàm với Tổng thống Liên bang Nga V. Putin.
Ảnh: Nhan Sáng -TTXVN
Chủ tịch nước Trần Đại Quang đang có chuyến thăm Liên bang Nga trong các ngày từ 28/6-1/7. Trước đó, ông đã thăm Belarus trong các ngày từ 26-28/6. Trong những ngày tới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc sẽ thăm Cộng hòa Liên bang Đức, dự Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại thành phố Hamburg, Cộng hòa Liên bang Đức từ ngày 5 đến ngày 8/7 và thăm Vương quốc Hà Lan từ ngày 9 đến ngày 11/7, theo lời mời của Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức Angela Merkel và Thủ tướng Vương quốc Hà Lan Mark Rutte.
Kết quả của sự đổi mới nhận thức về thế giới và tư duy đối ngoại
Những chuyến thăm cấp cao liên tục trong những ngày này và nhiều năm qua là kết quả của chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Việt Nam. Theo chủ trương này, lợi ích và mục tiêu cao nhất về đối ngoại của Việt Nam là giữ vững hoà bình để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia. Tư tưởng chỉ đạo trong các hoạt động đối ngoại là: giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng Việt Nam có quan hệ. Đây cũng chính là sự kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Đường lối đối ngoại của Việt Nam là nhất quán, rộng mở - ảnh 2Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - Ảnh: TTXVN
Triển khai đường lối đối ngoại đổi mới sáng tạo và đúng đắn, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, giữ vững môi trường hòa bình, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, vị thế đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy, củng cố xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.  
Khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại rộng mở
 Cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 177 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn, có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới. Cả nước thu hút được hơn17 nghìn dự án FDI với tổng số vốn đăng ký hơn 170 tỷ USD. Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Australia, hàng hóa Việt Nam đã vươn mạnh ra nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi... Với hành trang văn hóa độc đáo và giàu truyền thống, Việt Nam ngày càng tự tin, năng động vươn lên tầm cao mới trong giao lưu và hội nhập với khu vực và thế giới. Hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam có bước trưởng thành và phát triển nổi bật. Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, Việt Nam đã phối hợp với nhiều nước đấu tranh bảo vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp quốc. Việt Nam được bầu và đã hoàn thành trọng trách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016
Những chuyến thăm cấp cao liên tục gần đây cho thấy chưa bao giờ, quan hệ đối ngoại của Việt Nam lại rộng mở và phát triển như hiện nay. Đối ngoại thời kỳ đổi mới đạt những thành tựu to lớn, một mặt góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát triển đất nước; mặt khác cho thấy Việt Nam vững tin vươn lên, trưởng thành vượt bậc, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Những thành tựu đó là biểu hiện sinh động về tính sáng tạo, đúng đắn trong đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam.
Thu Hoa

Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền con người

29/06/2017 - 16:27

Tại Việt Nam, nhận thức của người dân, đặc biệt là giới trẻ về quyền con người được nâng cao; công tác an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được quan tâm.
Các em học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Lao Chải, Sa Pa, Lào Cai trong lớp học. (Ảnh minh họa: Quý Trung/TTXVN)
Ngày 29/6, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao phối hợp với Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức Hội thảo thông tin về tình hình thực hiện các khuyến nghị theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ II được Việt Nam chấp thuận.
Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát, thúc đẩy quyền con người
Phát biểu tại hội thảo, ông Phạm Sanh Châu, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho biết, là một quốc gia tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn coi trọng và thực hiện đầy đủ các cam kết và nghĩa vụ theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát, đặc biệt là việc thực hiện các khuyến nghị Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ II mà Việt Nam chấp thuận với sự tham gia chủ động, tích cực của tất cả các bộ, ngành liên quan trên cơ sở tiếp thu thông tin, ý kiến đóng góp quý báu từ các tổ chức, cá nhân quan tâm.
Theo Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Sanh Châu, Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát đã bước sang chu kỳ thứ III, được đánh giá là một cơ chế thành công, hiệu quả nhất của Hội đồng Nhân quyền và trên thực tế đã góp phần thúc đẩy quyền con người tại nhiều quốc gia và trên toàn thế giới vì cơ chế này đã đảm bảo các nguyên tắc tiến bộ về nhân quyền như phổ cập, toàn diện, công bằng, hợp tác và đối thoại liên chính phủ.
Hội thảo lần này nhằm thông báo rộng rãi cho mọi cá nhân, tổ chức quan tâm về kết quả thực hiện các khuyến nghị Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ II mà Việt Nam chấp thuận, đồng thời trao đổi về những trọng tâm, lĩnh vực cần ưu tiên thúc đẩy hơn nữa trong việc triển khai Kế hoạch hành động thực hiện các khuyến nghị Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát hướng đến chu kỳ III, dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 1/2019.
Đánh giá cao sự phối hợp của Việt Nam với những cơ quan thực hiện cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc trong việc triển khai Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát, ông Kamal Malhotra, Điều phối viên Liên hợp quốc tại Việt Nam, Trưởng Đại diện Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam cho rằng tiến trình triển khai Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát cần đảm bảo tính độc lập quốc gia, giúp công tác báo cáo kịp thời, triển khai các khuyến nghị được hiệu quả, nâng cao chất lượng tương tác, tính bổ trợ của tiến trình Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát.
Thiết lập hệ thống giám sát Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát hiệu quả là rất quan trọng. Việc thiếu những kỳ hạn rõ ràng, không có chỉ số cụ thể thì việc giám sát chương trình hành động Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát đặt ra thách thức trong việc theo dõi biến chuyển và tiến độ của việc thực hiện.
"Chỉ có sự phân định rõ ràng và có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Chính phủ thì mới có thể đảm bảo thực hiện hiệu quả các khuyến nghị được chấp thuận. Sự tham gia của các tổ chức xã hội vào việc thực hiện Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát là rất cần thiết, góp phần tăng cường bảo vệ nhân quyền của từng cá nhân, giúp mọi người thực hiện quyền của mình tốt hơn," ông Kamal Malhotra nói.
Việt Nam chấp nhận 182/227 khuyến nghị
Thông tin về tình hình thực hiện các khuyến nghị Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ II được Việt Nam chấp thuận, bà Hoàng Thị Thanh Nga, Phó Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, cho biết Phiên rà soát Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ II về Việt Nam diễn ra ngày 5/2/2014 tại Hội đồng Nhân quyền. 106 nước phát biểu, đánh giá cao chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người kể từ năm 2009 và đưa ra 227 khuyến nghị. Việt Nam chấp nhận 182/227 khuyến nghị. Các khuyến nghị không được chấp thuận do không phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện đặc thù của Việt Nam.
182 khuyến nghị thuộc 7 lĩnh vực: Cải cách hệ thống pháp luật về quyền con người; tiếp tục tăng cường và bảo vệ các quyền con người trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị; đảm bảo quyền của các nhóm dễ bị tổn thương; giáo dục về quyền con người; tiếp tục gia nhập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người; thực hiện nghĩa vụ quốc tế về quyền con người; hợp tác quốc tế về quyền con người.
Ngay sau khi nghiên cứu các khuyến nghị đã được chấp thuận, Việt Nam đã phân công các bộ, ngành triển khai thực hiện. Sau 2 năm tính từ tháng 6/2014 đến hết ngày 31/12/2016, có 147 khuyến nghị đã được triển khai thực hiện và 4 khuyến nghị được thực hiện một phần, trong tổng số 182 khuyến nghị Việt Nam đã chấp thuận, đạt 80,7%.
Cải cách hệ thống pháp luật về quyền con người cho thấy, từ năm 2014-2016, hàng chục văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân đã được thông qua nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị, Việt Nam đã triển khai thực hiện khuyến nghị về bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người nói chung. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1.900 USD năm 2013 lên 2.215 USD năm 2016. Số người được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế tăng, 25,05% xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Công tác an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được quan tâm cao, kịp thời thực hiện chính sách hỗ trợ, giải quyết các khó khăn cho người dân tại các vùng bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, 4 tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng do sự cố môi trường biển, đẩy mạnh triển khai Chiến lược quốc gia về phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020.
Các tổ chức xã hội và người dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình kiểm tra, giám sát việc thực thi luật pháp, chính sách của Nhà nước. Người dân được tạo điều kiện tiếp cận và sử dụng Internet để thực hiện quyền tự do ngôn luận, hiện có khoảng 50 triệu người sử dụng Internet tại Việt Nam, chiếm 52% dân số. Các tổ chức tôn giáo ngày càng được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động.
Về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, Việt Nam đã thực hiện nhiều chương trình quốc gia đạt kết quả cao: Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020; Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012-2020; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 2012-2020; Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020; Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đã ban hành cho đối tượng bảo trợ xã hội, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương.
Tại Việt Nam, nhận thức của người dân, đặc biệt là giới trẻ về quyền con người được nâng cao. Các bộ, ban, ngành tích cực triển khai các chương trình, kế hoạch tuyên truyền về quyền con người, đặc biệt là phổ biến, đào tạo về Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế và các văn kiện nhân quyền quốc tế; nỗ lực và chính sách của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người.
Ngày 28/11/2014, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn việc tham gia Công ước Chống tra tấn (CAT) và Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD). Việt Nam chính thức là thành viên của 7/9 Công ước chủ chốt của Liên hợp quốc về quyền con người.
Việt Nam tích cực thực hiện các nghĩa vụ, cam kết quốc tế về quyền con người như đang đảm nhận tốt vai trò thành viên Hội đồng Kinh tế-Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018, Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Văn hóa và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) nhiệm kỳ 2015-2019; tham gia tích cực, có trách nhiệm tại Ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR).../.  
Theo TTXVN

Quan hệ Việt Nam - Campuchia sẽ gặt hái nhiều thành tựu


(PLO)- Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong bày tỏ sự tin tưởng mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, trong đó có quan hệ TP.HCM - Phnom Penh sẽ gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa trong thời gian tới.
Ngày 29-6, UBND TP.HCM tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và vương quốc Campuchia (24-6-2967 – 24-6-2017) tại Nhà hát lớn TP.
Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thành Phong khẳng định việc hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao là một sự kiện trọng đại, đánh dấu trang sử mới trong quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia sẽ gặt hái nhiều thành tựu - ảnh 1
Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong bày tỏ sự tin tưởng mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, TP.HCM - Phnom Penh gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa trong thời gian sắp tới. Ảnh: HTD
Ông Nguyễn Thành Phong cũng không quên nhắc lại những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước, quân đội và nhân dân Việt Nam đã trực tiếp cùng quân đội và nhân dân Campuchia sát cánh chiến đấu giành thắng lợi. Hàng chục ngàn chiến sĩ tình nguyện Việt Nam, trong đó có con em TP.HCM đã không tiếc máu xương ngã xuống tại đất nước chùa tháp.
“50 năm trôi qua, chặng đường nửa thế kỷ với bao thăng trầm của lịch sử đã chứng kiến sự gắn bó hữu nghị giữa hai đất nước láng giềng. Đây chính là tài sản vô giá mà thế hệ cha anh đi trước đã truyền lại cho thế hệ hôm nay” - ông Phong khẳng định.
Theo Chủ tịch UBND TP, tiếp nối truyền thống quý báu ấy, ngày nay quan hệ hợp tác song phương đã được nâng lên tầm cao mới theo phương châm “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” với nhiều thành quả hợp tác to lớn giữa hai nước trên mọi lĩnh vực. Quan hệ chính trị tiếp tục được thắt chặt và ngày càng nồng ấm thông qua các chuyến thăm thường xuyên lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước.
Bên cạnh đó, hai nước đã và đang đẩy mạnh hợp tác trên các diễn đàn đa phương, tổ chức quốc tế - trong đó có Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chia sẻ quan điểm về các vấn đề của khu vực và trên thế giới vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia sẽ gặt hái nhiều thành tựu - ảnh 2
Tổng Lãnh sự quán vương quốc Campuchia Im Hen cũng cho biết hiện nay quan hệ chính trị giữa hai nước đạt kết quả rất tích cực. Ảnh: HTD
Người đứng đầu UBND TP cũng nhấn mạnh đến quan hệ giữa TP.HCM và thủ đô Phnom Penh được thiết lập từ năm 1999 đã không ngừng được củng cố và mở rộng với nhiều dự án thiết thực và hiệu quả, đem lại lợi ích cho nhân dân hai địa phương. Trong đó, đến nay doanh nghiệp TP đã có 83 dự án được cấp phép đầu tư tại Campuchia với tổng số vốn gần 387 triệu USD, nổi bật là dự án BV Chợ Rẫy Phnom Penh với quy mô 500 giường bệnh đã đi vào hoạt động tháng 12-2013.
“Chính quyền và nhân dân TP.HCM trước sau như một, luôn xem trọng và đóng góp cho tình hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện giữa Chính phủ và nhân dân hai nước. Chúng tôi tin tưởng trên nền tảng quan hệ hữu nghị lâu đời giữa hai nước láng giềng, trong đó có quan hệ TP.HCM - Phnom Penh sẽ gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa trong thời gian sắp tới” - ông nói.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia sẽ gặt hái nhiều thành tựu - ảnh 3
Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong và Tổng Lãnh sự quán vương quốc Campuchia Im Hen tại TP.HCM chụp ảnh lưu niệm. Ảnh: HTD
Tổng Lãnh sự quán vương quốc Campuchia tại TP.HCM Im Hen cũng cho biết hiện nay quan hệ chính trị giữa hai nước đạt kết quả rất tích cực. Nhân dân khu vực biên giới thường xuyên qua lại du lịch, trao đổi công việc làm ăn, thăm hỏi lẫn nhau.
Ông Im Hen khẳng định đôi bên đang cùng nhau cố gắng giải quyết các vấn đề còn tồn tại như vấn đề biên giới, vấn đề Việt kiều ở Campuchia, tội phạm dọc biên giới, khai thác gỗ trái phép, buôn ma túy, tội phạm xuyên biên giới, nạn buôn người.
“Sự nỗ lực và ý chí quyết tâm của các cấp lãnh đạo hai nước, mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết, láng giềng tốt đẹp và hợp tác toàn diện Campuchia - Việt Nam sẽ được tiếp tục củng cố, phát triển trong những năm tiếp theo vì lợi ích của nhân dân mỗi nước cũng như sự phồn vinh của cộng đồng ASEAN, qua đó góp phần vào hòa bình, ổn định khu vực và thế giới” - ông nói.
LÊ THOA - HTD

Chính sách dân tộc tại Việt Nam: Thành tựu và thách thức cần vượt qua

23/6/2017 21:50'
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển - Nguồn: archives.gov.vn
Những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới

Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa bảo đảm tính nhất quán, vừa đổi mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Từ Đại hội IV đến Đại hội XII của Đảng, chính sách dân tộc được Đảng ta đề ra trên các vấn đề cốt lõi là: Vị trí của vấn đề dân tộc trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc; những vấn đề trọng yếu của chính sách dân tộc trong những điều kiện cụ thể. Trong suốt quá trình phát triển, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán theo nguyên tắc “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”. Điều này, một mặt, thể hiện trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; mặt khác, cho thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc đang là sự đòi hỏi cấp thiết cần phải có những chỉ đạo kịp thời. 
Nội dung của chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhà nước ta tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây: 1- Chính sách về phát triển kinh tế vùng các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng đồng bào các dân tộc, gắn với kế hoạch phát triển chung của cả nước, đưa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cùng cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2- Chính sách xã hội tập trung vào các vấn đề giáo dục - đào tạo, văn hóa, y tế... nhằm nâng cao năng lực, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tạo tiền đề và các cơ hội để các dân tộc có đầy đủ các điều kiện tham gia quá trình phát triển, trên cơ sở đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. 3- Chính sách liên quan đến quốc phòng - an ninh, nhằm củng cố các địa bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc và quan hệ dân tộc trong mối liên hệ tộc người, giữa các tộc người và liên quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa.
Nhìn tổng thể cả ba chính sách trên, xét về mục tiêu, chính sách dân tộc của Đảng đều nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất nước để phục vụ đời sống nhân dân các dân tộc, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thể hiện nguyên tắc cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển. Các nội dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Bình đẳng dân tộc là nền tảng thực hiện đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, thương yêu, tôn trọng giúp đỡ nhau thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc. Nhìn lại thời kỳ đổi mới, có thể khái lược ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Trong những năm qua tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, như tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khmer ở Tây Nam Bộ. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới. Tất cả công việc này đều được xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân tộc thiểu số. Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn tình trạng phát triển không đều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và Nhà nước ta coi trọng tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; kiên quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi. Tiếp tục xây dựng, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Thông qua các chính sách, biện pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Những thành tựu quan trọng trong thực thi chính sách dân tộc
Công tác dân tộc thời gian qua đã góp phần tích cực làm thay đổi rõ nét diện mạo nông thôn vùng dân tộc và miền núi, quyền bình đẳng giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời sống. Qua đó, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng bước, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt.
Theo báo cáo của các địa phương vùng dân tộc và miền núi, chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đều đạt và vượt, bình quân khoảng 3% - 4%/năm, cụ thể là: Các tỉnh vùng Đông Bắc giảm 3,62%; Tây Bắc giảm 4,47%; Tây Nguyên giảm 3,04%; đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,15%. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% số xã có đường ô-tô đến trụ sở ủy ban nhân dân xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện (số liệu của Tổng Cục thống kê năm 2010 - 2015).
Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan. Đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Đặc biệt, mặt bằng dân trí được nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi, tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng cao một bước, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ thống phát thanh, truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không ngừng phát triển. Công tác giáo dục có nhiều tiến bộ: 99,5% số xã có trường tiểu học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non; 100% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Loại hình trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay cả nước có 294 trường phổ thông dân tộc nội trú với 80.832 học sinh; 4 trường dự bị đại học với trên 3.000 học sinh/năm. Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và miền núi đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế,...
Bên cạnh đó, mạng lưới y tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã được quan tâm đầu tư, có 99,39% số xã có trạm y tế, 77,8% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2013, có 88% số thôn, bản trong cả nước có nhân viên y tế hoạt động. Đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, người nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và được hưởng chính sách bảo hiểm y tế đúng quy định. Các dịch bệnh ở vùng dân tộc và miền núi, như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm đáng kể. Mạng lưới thông tin, văn hóa, thể thao nông thôn có sự phát triển nhanh, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Năm 2011, 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn; 38,7% số xã có nhà văn hóa xã; 48% số xã có sân thể thao.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và miền núi có chuyển biến tốt, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người dân. Công tác vận động nhân dân, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng được chú trọng. Bình đẳng giới từng bước được tạo lập giúp người phụ nữ nâng cao nhận thức, vươn lên phát huy vai trò của bản thân trong gia đình và xã hội.
Những khó khăn, thách thức cần vượt qua
Bên cạnh một số thành tựu đạt được, còn nhiều yếu kém cũng như thách thức đặt ra cho công tác dân tộc trong giai đoạn hiện nay. 
Thứ nhất, hệ thống chính sách vùng dân tộc và miền núi so với giai đoạn trước có nhiều ưu điểm, nhưng còn bộc lộ không ít hạn chế, như chưa bảo đảm gắn kết thống nhất giữa chính sách phát triển dân tộc - tộc người với chính sách phát triển vùng; thời gian thực hiện chính sách ngắn, thiếu tính chiến lược; trình tự thủ tục xây dựng và trình một số đề án mất nhiều thời gian; hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ; chính sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả chưa thực sự bền vững; nhiều chính sách phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức không còn phù hợp với thực tế; có chính sách do huy động nhiều nguồn vốn, khi cấp vốn không đồng bộ dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện; việc bố trí vốn đối ứng của các địa phương gặp khó khăn do đa số các địa phương vùng dân tộc và miền núi đều phải nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương.
Việc xây dựng một số chính sách thiếu thực tế, chưa phù hợp với địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém, phân công chủ trì chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa hợp lý; việc phối hợp giữa các bộ, ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ đạo có mặt còn chồng chéo. Việc lồng ghép các chính sách trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi còn nhiều khó khăn, bất cập. Công tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách còn hạn chế. Chỉ đạo, thực hiện chính sách ở một số địa phương còn lúng túng. Công tác lập kế hoạch, rà soát đối tượng thụ hưởng trong việc thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế,...
Thứ hai, ở vùng dân tộc và miền núi, kinh tế chậm phát triển so với tiềm năng của vùng và phát triển chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Mức độ thương phẩm hóa của nông sản còn thấp; sản phẩm sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu và yếu kém: Hiện còn 535/1.848 xã có đường đến trung tâm xã chỉ đi được trong mùa khô; 14.093 thôn, bản chưa có đường ô-tô; 204/1.848 xã chưa có điện lưới quốc gia đến trung tâm xã và trên 8.100 thôn, bản chưa được sử dụng điện lưới quốc gia; 304 xã đặc biệt khó khăn chưa đủ lớp học kiên cố; 15.930 thôn, bản chưa có nhà trẻ, mẫu giáo; 758 xã chưa có nhà văn hóa;...
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều vùng dân tộc và miền núi cao nhất cả nước; tình trạng tái nghèo phổ biến ở nhiều nơi. Năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi Tây Bắc là 34,52%, miền núi Đông Bắc: 20,74%; Tây Nguyên: 17,14%; các tỉnh Bắc Trung Bộ: 12,5%. Kết quả giảm nghèo thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp: 21% số người trong độ tuổi đi học không biết đọc, biết viết chữ phổ thông; số người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo chiếm 89,5%, riêng số người trong độ tuổi lao động là người dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chiếm 94,2% (tỷ lệ này ở đồng bào dân tộc Mông là 98,7%; Khmer: 97,7%; Thái: 94,6%; Mường: 93,3%); chất lượng đào tạo nghề thấp.
Đội ngũ cán bộ y tế vùng dân tộc và miền núi vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số. Trang thiết bị y tế thiếu và lạc hậu, phần lớn người nghèo vùng dân tộc và miền núi không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng tốt. 
Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi còn yếu, đặc biệt đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ còn hạn chế, nhất là thiếu đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hoặc có cán bộ dân tộc nhưng chưa được đào tạo. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong chính quyền cấp huyện và tỉnh tại các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp (khoảng 10,9% và 11,32%). Trong tổng số 48.200 cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, số người có trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45%, tiểu học: 18,7%, chỉ có 1,9% có trình độ cao đẳng và đại học.
Công tác dân tộc đang có những thách thức chủ yếu là: Khoảng cách giàu - nghèo, chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân tộc ngày càng lớn; tỷ lệ nghèo ở các vùng dân tộc và miền núi cao hơn 2,5 lần so với tỷ lệ bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, là những khó khăn, thiếu thốn ở các “vùng lõi” của đói nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc và miền núi từ các tỉnh phía Bắc đến các tỉnh phía Nam.
Nhu cầu nguồn lực đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu theo Nghị quyết của Chính phủ về định mức giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 là rất lớn, sẽ vượt quá khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước. Chất lượng các công trình kết cấu hạ tầng, như giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa còn thấp. Nguồn vốn đầu tư cho các chính sách chưa đáp ứng nhu cầu mục tiêu./.
Nguyễn Quỳnh HoaThS, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội

Báo chí đóng góp to lớn và quan trọng vào thành tựu của đất nước



 Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhấn mạnh trong suốt hơn 30 năm đổi mới nói chung và trong năm 2016 nói riêng, báo chí đóng góp to lớn và quan trọng vào thành tựu của đất nước.
Tối 21/6, lễ trao giải Báo chí Quốc gia lần thứ XI - 2016 được tổ chức trọng thể tại Cung Hữu nghị Việt xô (Hà Nội).
Tham dự Lễ trao giải có Chủ tịch nước Trần Đại Quang; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân; Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh; Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính; Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng,  Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm…
Phát biểu khai mạc, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Thuận Hữu khẳng định báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và dạy bảo đã đi qua chặng đường 92 năm. Dưới sự tin yêu, ủng hộ và đùm bọc của nhân dân, báo chí cách mạng luôn gắn bó với vận mệnh dân tộc, ngày càng lớn mạnh, luôn luôn là lực lượng đi đầu, là vũ khí tinh thần sắc bén của Đảng.
Phát biểu tại lễ trao giải, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp to lớn của đội ngũ người làm báo cả nước.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng nhấn mạnh, trong suốt hơn 30 năm đổi mới nói chung và trong năm 2016 nói riêng, báo chí nước nhà đã có những đóng góp to lớn và quan trọng vào thành tựu chung của đất nước. Tích cực tuyên truyền, hướng dẫn, cổ vũ các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
Theo Chủ tịch nước, thời gian qua, các cơ quan báo chí đã luôn bám sát, phản ánh kịp thời sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Bao chi dong gop to lon va quan trong vao thanh tuu cua dat nuoc hinh anh 1
Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu tại buổi lễ. Ảnh: Vietnam+.
Chủ tịch nước nhấn mạnh các cơ quan báo chí cũng đã kịp thời cổ vũ nhân tố mới, gương người tốt việc tốt và phản ánh trung thực, sinh động tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
Chủ tịch nước cũng không quên lưu ý các đơn vị báo chí đổi mới nội dung, phương thức, mô hình, công nghệ kỹ thuật để bắt kịp xu thế hội nhập trong làm báo.
Cũng tại buổi lễ, 7 Giải A, 24 Giải B, 39 Giải C và 25 Giải khuyến khích đã được trao cho các tác phẩm của các tác giả, nhóm giả đoạt giải.
Giải Báo chí Quốc gia lần thứ XI - năm 2016 đã nhận được sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của các cấp hội, các cơ quan báo chí với hơn 1.600 tác phẩm báo chí của 214 đơn vị và cá nhân tham dự. Hội đồng chung khảo đã quyết định chọn 129 tác phẩm vào vòng chung khảo.
Theo đánh giá chung, các tác phẩm tham dự Giải Báo chí Quốc gia lần thứ XI đều bám sát các sự kiện nổi bật trong năm 2016, các diễn biến của đời sống xã hội, tình hình chính trị của đất nước và đấu tranh chống các thế lực thù địch, tham nhũng, tiêu cực…
Các tác phẩm đạt giải là những tác phẩm có tính phát hiện, tính chiến đấu cao, tạo hiệu ứng xã hội tích cực. Những tác phẩm tập trung phản ánh những vấn đề lớn của đất nước, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Danh sách 7 tác phẩm đạt giải A

1.Tác phẩm Chuyện như đùa ở Hải Dương - Liên Chi hội Nhà báo Báo Nhân Dân;
2. Tác phẩm Phòng chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng - vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta – Liên Chi hội Nhà báo Báo Quân đội Nhân dân;
3. Tác phẩm Những con nợ của nền kinh tế – Liên Chi hội Nhà báo Báo Nhân Dân;
4. Tác phẩm Nghị quyết Trung ương IV- Cách làm sáng tạo ở tỉnh Quảng Ngãi – Hội Nhà báo tỉnh Quảng Ngãi;
5.Tác phẩm Y tế Quảng Ninh - Đột phá trong đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế – Hội nhà báo tỉnh Quảng Ninh;
6. Tác phẩm Hai đứa trẻ – Liên Chi hội Nhà báo Đài Truyền hình Việt Nam;
7. Tác phẩm Quản lý giá biệt dược: Làm gì để thị trường thuốc không “nhảy múa”? – Liên Chi hội Nhà báo Thông tấn xã Việt Nam.
Anh Văn

Báo Nga ca ngợi Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân bất khả chiến bại

14:44 Ngày 16/06/2017
Trên tờ Sputnik, cây bút Alexei Syunnerberg đã chia sẻ nhận định và phân tích lý do khiến Quân đội nhân dân Việt Nam trở nên đáng gờm trên bản đồ quân sự thế giới.

images1090752_zingt5455
Quân đội nhân dân Việt Nam được báo Nga đánh giá rất cao
Theo tờ báo Nga, chỉ trong 6 tháng, Việt Nam đã tăng thêm một bậc trên bảng xếp hạng chỉ số sức mạnh quân sự toàn cầu của tổ chức Global Firepower, từ hạng 17 lên thứ hạng 16 thế giới. Cụ thể, ngày 25/4, chỉ số trên của Việt Nam theo dữ liệu mới nhất là 0,3701. Ở Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ hai, chỉ chịu lép vế trước Indonesia.
Sputnik còn dẫn lời nhà khoa học chính trị Nga, giáo sư Vladimir Kolotov, cho biết: Bảng xếp hạng này phản ánh đúng thực tế khi Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giành phần thắng trong cuộc chiến với các cường quốc hàng đầu thế giới như đế quốc Mỹ hay thực dân Pháp.
Cây bút Syunnerberg còn nhận xét, bộ đội Việt Nam luôn chiến đấu với tinh thần bất khuất và dũng mãnh, kết hợp kỹ năng nghiệp vụ cao của đội ngũ cán bộ chỉ huy, giúp họ luôn vượt trội so với kẻ thù trong chiến lược và chiến thuật quân sự.
Không chỉ phỏng vấn chuyên gia Nga, Sputnik còn tham khảo ý kiến của các quan chức quân đội Việt Nam. Một trong số đó là Thượng tướng Nguyễn Văn Được, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Thượng tướng Được rất tự hào khi nói về lịch sử vẻ vang của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông nhấn mạnh, điều quan trọng là nhiều cán bộ chỉ huy của quân đội Việt Nam đã được đào tạo tại các học viện quân sự của Liên Xô và Nga, cùng với đó là sự hỗ trợ đắc lực về vũ khí-khí tài hiện đại.
Thượng tướng Nguyễn Văn Được nhấn mạnh, hiện tại quân đội Việt Nam sở hữu nhiều loại vũ khí của quân đội Nga. Ngoài bảng xếp hạng mới nhất trên trang Global FirePower, chiếc tàu ngầm cuối cùng thuộc dự án 636 lớp Varshavyanka (NATO định danh là Kilo) mà Nga đóng cho Hải quân Việt Nam đã được bàn giao vào ngày 20/1.

tn
Lễ thượng cờ trên tàu ngầm Bà Rịa Vũng Tàu. Ảnh: Zing.vn
Trong thành phần hải quân Việt Nam chiếc tàu này được gọi là "Bà Rịa-Vũng Tàu". Nếu so với các loại tàu ngầm khác trên thế giới, Varshavyanka có tiếng ồn của tàu phát ra rất thấp, giảm sự phản xạ radar, giúp chúng khó bị phát hiện hơn trên màn radar. Không phải ngẫu nhiên các chuyên gia phương Tây gọi tàu ngầm lớp Varshavyanka là "hố đen đại dương". Bên cạnh đó, phía Nga cũng bàn giao 2 tàu hộ vệ tên lửa đầu tiên được gọi là Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ cho Việt Nam, và hiện nay Việt Nam đang đàm phán mua cặp tàu thứ ba.
Ngoài các vũ khí kể trên, quân đội Việt Nam còn nhận được các hệ thống phòng không Buk, Tor và S-300, các hệ thống tên lửa phòng không Dvina đã được cải tiến đáng kể so với tên lửa Dvina mà Liên Xô đã cung cấp trước đây. Việt Nam đang đàm phán về việc mua hệ thống S-400 của Nga với tầm bắn lớn hơn.
Để nâng cao năng lực quân đội, hiện nay, ngoài Nga, Việt Nam còn tăng cường, mở rộng hợp tác quốc phòng với nhiều đối tác khác như Mỹ, Nhật, Israel,... Trong tháng 5 và 6, các tàu hải quân Mỹ và tàu tác chiến USS Coronado đã tới quân cảng Cam Ranh để thăm và tập huấn cùng hải quân Việt Nam. Ngoài hải quân Mỹ, các chiến hạm của Australia, Nhật Bản cũng tới thăm quân cảng nổi tiếng của Việt Nam.
Trong những năm vừa qua, hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Israel đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt, Israel có 1 số lĩnh vực rất mạnh và có ưu thế lớn về khoa học công nghệ như: vũ khí điện tử, tác chiến điện tử, những vũ khí kỹ thuật cao. Trong bối cảnh Israel bày tỏ thái độ cởi mở, mong muốn hợp tác với Việt Nam, chúng ta cũng không gặp phải những hạn chế, rào cản về mặt chính trị hay quân sự với các đối tác khác, đây sẽ là cơ hội tốt để phía Việt Nam tận dụng cơ hội, đẩy mạnh hợp tác lên tầm cao mới.
 Nguyễn Thái (tổng hợp) / Tin Nhanh Online

Cuba đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam

Thứ 3, 19:46, 13/06/2017
VOV.VN - Những thành tựu Việt Nam đạt được trong hơn 30 năm đổi mới sẽ là kinh nghiệm quý báu để nhân dân Cuba tham khảo trong quá trình phát triển.
Chiều 13/6, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thân mật tiếp Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Cuba do ngài Esteban Lazo Hernández, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Cuba dẫn đầu sang chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam
Chủ tịch Quốc hội Cuba Esteban Lazo Hernández cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành thời gian tiếp Đoàn; cảm ơn Tổng Bí thư đã dành cho Đoàn nói riêng, cho Đảng, nhà nước và nhân dân Cuba nói chung những tình cảm sâu sắc.
cuba danh gia cao thanh tuu doi moi cua viet nam hinh 1
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thân mật tiếp Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Cuba Esteban Lazo Hernández.
Chủ tịch Quốc hội Cuba trân trọng chuyển lời thăm hỏi thân thiết và nồng nhiệt nhất của Chủ tịch Raúl Castro và lãnh đạo Đảng, nhà nước, của nhân dân Cuba tới Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo Đảng, nhà nước và nhân dân ta; chúc mừng những thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong hơn 30 năm đổi mới; coi đây là kinh nghiệm quý báu để nhân dân Cuba tham khảo trong quá trình triển khai đường lối “cập nhật hóa” mô hình phát triển kinh tế-xã hội; bày tỏ tin tưởng Việt Nam sẽ tiếp tục giành được nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Quốc hội Esteban Lazo Hernández thông báo với Tổng Bí thư về kết quả các cuộc hội đàm, hội kiến với các đồng chí Lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam; thông báo những nét lớn về Quốc hội và tình hình Cuba gần đây; cảm ơn sự đoàn kết và ủng hộ quí báu của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và nhân dân Việt Nam đã luôn dành cho Cuba; khẳng định quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đặc biệt giữa hai đảng, hai quốc hội và nhân dân hai nước Cuba - Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nồng nhiệt chào mừng Chủ tịch Esteban Lazo Hernándezsang thăm Việt Nam; bày tỏ tin tưởng chuyến thăm của Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Cuba sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ anh em mẫu mực, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, đoàn kết thủy chung trong sáng giữa đảng, nhà nước, quốc hội và nhân dân hai nước Việt Nam – Cu-ba.
Tổng Bí thư mong muốn, trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay, hai đảng, hai nước càng cần phải nỗ lực vun đắp cho “quan hệ anh em truyền thống, mẫu mực, là biểu tượng của thời đại” như khẳng định của Chủ tịch Fidel Castro.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sẽ luôn ở bên cạnh Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba anh em trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu và lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội; sẽ chung vai, sát cánh, đồng hành cùng Cuba trong công cuộc “cập nhật hóa” mô hình phát triển kinh tế-xã hội, sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm, cả thành công và hạn chế, mà Việt Nam đã rút ra được sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới; cùng Cuba trao đổi, học tập kinh nghiệm của nhau về lý luận, thực tiễn.
Tổng Bí thư bày tỏ tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba, đứng đầu là Chủ tịch Raúl Castro, nhân dân Cuba anh em sẽ vượt qua mọi thách thức, tiếp tục giành nhiều thắng lợi mới to lớn hơn nữa trong sự nghiệp cách mạng của mình, vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội phồn vinh và bền vững./.
 Xuân Dần/VOV