Saturday, July 23, 2016

“Lập trường Quốc hội về chủ quyền biển đảo không thay đổi”

Trước đề nghị cho biết lập trường của Quốc hội khoá XIV về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, ngày 23/7, trong cuộc gặp gỡ báo chí, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định, Việt Nam nhất quán lập trường bảo vệ chủ quyền và từ trước tới giờ không có gì thay đổi.
“Chủ quyền là vấn đề thiêng liêng. Người dân Việt Nam hơn ai hết mong mốn hoà bình, yêu chuộng hoà bình và để bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là trong điều kiện có tranh chấp nhiều bên ở Biển Đông, chúng ta phải có biện pháp, kể cả đấu tranh chính trị, ngoại giao và đấu tranh thực địa để bảo vệ” – bà Nguyễn Thị Kim Ngân nói.
lap truong quoc hoi ve chu quyen bien dao khong thay doi hinh 1
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại cuộc gặp mặt báo chí trong và ngoài nước ngày 23/7
Nữ Chủ tịch Quốc hội cũng nhấn mạnh thêm: “Việt Nam tôn trọng hoà bình, ổn định khu vực, để cho nhân dân có môi trường hoà bình làm ăn sinh sống, phát triển đất nước. Chúng ta không hiếu chiến, đe doạ vũ lực và đề nghị tất cả các nước không đe doạ hay sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp”.
Lưu ý ở nơi này nơi khác trên thế giới còn có vấn đề song tình hình đất nước chúng ta ổn định, bà Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng, không phải hô hào cho thật to, kích động thế này thế nọ mà có được chủ quyền.
“Không có đâu. Nhà báo hơn ai hết phải thấy rõ được vấn đề này. Không phải một số tổ chức, cá nhân cứ lên tiếng hô hào thế này thế nọ thì bảo vệ được chủ quyền. Những người đó, tổ chức đó làm được gì cho đất nước? Chưa làm được gì cả, chỉ có nói và thậm chí kích động phần tử làm cho rối tình hình” – bà Ngân bày tỏ và nhấn mạnh giữ được chủ quyền biển đảo mà vẫn phải giữ được môi trường hoà bình.
Cũng theo người đứng đầu cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Việt Nam tôn trọng luật pháp quốc tế, do đó dù không phải là một bên của vụ kiện của Philippines, nhưng việc phán quyết của Toà trọng tài có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam nên chúng ta quan tâm, theo dõi.
“Sau phán quyết của toà, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng. Quan điểm của chúng ta là quán, xuyên sốt. Chúng ta hoanh nghênh phán quyết của Toà và đang nghiên cứu tài liệu rất dày này để xem lời lẽ thế nào, liên quan tới lợi ích của chúng ta ra sao để lên tiếng” – bà Nguyễn Thị Kim Ngân nói.
Dẫn lại sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng biển Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội khẳng định tinh thần bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam đã thể hiện rất rõ qua các hình thức đấu tranh, kể cả trên thực địa.
Mấy chục ngày đêm lúc nào lực lượng của ta cũng có mặt trên khu vực. Tàu ít, bé và trang thiết bị chưa hiện đại nhưng chưa lúc nào ta không có mặt để đấu tranh thực địa. Thậm chí bị vòi rồng phun, tàu bị đâm vỡ thì chạy về sửa và đưa chiếc khác ra.
Về đấu tranh chính trị, chúng ta có ý kiến đề nghị không dùng vũ lực và yêu cầu tôn trọng chủ quyền của Việt Nam. Quốc hội gửi thư tới các nước đề nghị ủng hộ quan điểm chính trị, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nghị viện và ngoại giao nhân dân. Các vị lãnh đạo trong các chuyến công tác đều vận động thế giới ủng hộ. Và chúng ta được sự ủng hộ của quốc tế, nhất là việc đưa nhà báo quốc tế ra thực địa để nắm rõ tình hình.
“Lập trường không có gì thay đổi. Quốc hội khoá XIV không có gì khác khoá XIII” – Chủ tịch Quốc hội khẳng định./.
Ngọc Thành/VOV.VN

Đại lễ cầu siêu tri ân Anh hùng liệt sỹ tại thành cổ Quảng Trị

Sáng 23-7, tại Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt thành cổ Quảng Trị, Hội Chiến sĩ thành cổ Quảng Trị năm 1972 và Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại lễ cầu siêu tưởng niệm anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong Chiến dịch bảo vệ thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Thành cổ Quảng Trị, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị trong 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972 được ví như một túi bom. Trung bình mỗi ngày, địch huy động 150-170 lượt máy bay phản lực, 70-90 lượt máy bay B52 ném bom huỷ diệt. Thị xã nhỏ bé này phải hứng chịu 328.000 tấn bom đạn, tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945.

Bảo vệ thành cổ Quảng Trị, hàng ngàn chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Máu xương của các anh hoà vào lòng đất bất tử với thời gian. Cuộc chiến đấu bảo vệ thành cổ Quảng Trị trở thành biểu tượng ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, là đỉnh cao của sự dâng hiến, là mốc son sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

dai-le-cau-sieu-1.jpg
Đại lễ cầu siêu tri ân Anh hùng liệt sĩ tại thành cổ Quảng Trị.

Ông Lê Xuân Tánh, Chủ tịch Hội chiến sĩ thành cổ Quảng Trị năm 1972 cho biết, Đại lễ cầu siêu là dịp tri ân các Anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh để Tổ quốc được trường tồn: “Trong cuộc chiến đấu khốc liệt đó, hàng vạn chiến sĩ đã hy sinh và nhiều người đã chết. Chúng tôi tổ chức đại lễ cầu siêu này cầu siêu tất cả các anh linh, hương hồn được siêu thoát, thể hiện tấm lòng của Hội chiến sĩ bảo vệ thành cổ năm 1972 đối với những người đã hy sinh xương máu và gia đình có con hy sinh ở đây”.

43 năm đã trôi qua, thành cổ Quảng Trị hôm nay đã hồi sinh. Những chiến sĩ bảo vệ thành cổ ngày ấy, nhiều người đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và tướng lĩnh trong quân đội.

Nhiều người trở về đời thường mang trong mình vết thương chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng họ luôn xứng đáng và tự hào về hình ảnh của người chiến sĩ thành cổ Quảng Trị. 

fcp1_a3-1.jpg
Thắp hương tưởng nhớ đồng đội, tri ân các Anh hùng liệt sĩ thành cổ Quảng Trị. Ảnh: VOV.

Trở lại chiến trường xưa những ngày này, gặp lại đồng đội, cựu chiến binh Bùi Văn Thăng ở tỉnh Vĩnh Phúc trăn trở: “Ai cũng vậy khi sống trên đời có người thân chia sẻ, khi về dưới suối vàng thì cần có người nhang khói chăm sóc.Tuy nhiên còn nhiều đồng đội chưa  tìm thấy hài cốt và danh tính. Điều đó chúng tôi cũng luôn trăn trở và thấy đau lòng”.

Nhân dịp này, nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức, ngân hàng, nhà hảo tâm trao tặng Hội Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị 2 tỷ đồng. Trong đó, Ngân hàng Vietcombank trao tặng 500 triệu đồng xây dựng 10 nhà tình nghĩa “ấm tình đồng đội” cho gia đình liệt sĩ và cựu chiến binh thành cổ hoàn cảnh khó khăn.
Theo VOV

Thursday, July 21, 2016

Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm hệ thống quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quán triệt và triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có sự phát triển với nhiều nội dung mới, sâu sắc và toàn diện. Nội hàm cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước. Điều này không chỉ thể hiện tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen cả thời cơ và thách thức, mà còn biểu thị rõ quyết tâm của Đảng ta xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”1. Đó là cơ sở định hướng để các cấp, các ngành tập trung triển khai thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải. Trong mục tiêu trọng yếu, Đảng ta cũng thể hiện nhiều quan điểm mới: “tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh”, “bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ nền văn hóa dân tộc”. Nội dung quan điểm có sự phát triển so với các kỳ đại hội trước, thể hiện sâu sắc tư duy phát triển của Đảng ở tầm chiến lược đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nếu ở Đại hội XI, quan điểm của Đảng mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia thì tại Đại hội XII, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu, rộng; sự giao thoa, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng nhiều; sự phát triển của hệ thống thông tin, nhất là in-tơ-nét làm cho cộng đồng các quốc gia xích lại gần nhau hơn, thì sự xâm lăng văn hóa theo đó cũng ngày càng lớn. Bởi vậy, quan điểm của Đảng là bảo vệ Tổ quốc phải toàn diện, trong đó có bảo vệ nền văn hóa Việt Nam - nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi lẽ, văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Điểm mới nữa là, tại Đại hội XII, Đảng ta có tầm nhìn sâu, rộng hơn về không gian và thời gian bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp mới rất khó đoán định, không thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp trong một sớm, một chiều, nên Đảng ta xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”2. Theo đó, các cấp, các ngành, các lực lượng, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cần chủ động xác định giải pháp triển khai thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng. Trên cơ sở nhiệm vụ tổng quát, Đại hội XII xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị cũng như nhiệm vụ cụ thể của mỗi lực lượng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”3. Nhiệm vụ này đã được các kỳ đại hội trước đề cập đến, nhưng chưa thật rõ như Đại hội XII của Đảng - “là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”.
Trước sự phát triển của khoa học công nghệ, các loại hình chiến tranh: truyền thống và phi truyền thống; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”4. Trong khi các thế lực tập trung đấu tranh đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thì quan điểm của Đảng chú trọng xây dựng Quân đội và Công an “vững mạnh về chính trị”, “tuyệt tối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân” là yếu tố tiên quyết để Quân đội và Công an luôn là lực lượng tin cậy, công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cùng với đó, “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống”5. Quan điểm xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thể hiện rõ tính định hướng chiến lược của Đảng ta về nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, nhằm đảm bảo cho lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh luôn chủ động trước mọi tình huống, không để Tổ quốc bị bất ngờ.
Đại hội XII, Đảng ta khẳng định tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh là phải tập trung mọi nguồn lực của cả hệ thống chính trị xây dựng “thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”6. Để làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, quan điểm mới của Đảng chỉ rõ: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”. Đặc biệt, tại Đại hội này, Đảng ta có quan điểm: “Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”. Đây là một chủ trương đúng, phù hợp với xu thế thời đại và cộng đồng quốc tế. Đồng thời, làm thất bại mọi chiêu bài của các thế lực thù địch hòng lợi dụng lòng yêu nước, kích động các tầng lớp nhân dân đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cùng với việc thể hiện nhất quán quan điểm “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội”, Đảng ta nhấn mạnh phải “Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”; “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đây vừa là quan điểm mới, vừa là định hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, quan điểm của Đảng là “Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt”. Đồng thời định hướng rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”7. Quan điểm mới của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng về nguồn lực, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đại tá, PGS, TS. TRẦN NAM CHUÂN
_____________         
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 147 - 148.
2 - Sđd, tr. 78 - 79.
3 - Sđd, tr. 148.
4 - Sđd, tr. 149.
5 - Sđd, tr. 150.
6 - Sđd, tr. 149
7 - Sđd, tr. 158-159.

Monday, July 18, 2016

Triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” tại Đồng Nai

Đồng Nai là đơn vị thứ 61 đón nhận, tổ chức triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam - Những bằng chứng và cơ sở pháp lý”.

Tại buổi họp báo, ông Nguyễn Văn Tạo, Phó Vụ trưởng Vụ thông tin cơ sở, Bộ TT-TT cho biết: Triển lãm sẽ trưng bày nhiều tư liệu, văn bản, hiện vật, ấn phẩm và gần 100 bản đồ, là tập hợp các nguồn tư liệu đã được công bố từ trước đến nay của các nhà nghiên cứu, học giả trong nước và quốc tế.Sáng 18-7, Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TT-TT) phối hợp với UBND tỉnh Đồng Nai tổ chức Họp báo Triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”.

Bộ TT-TT giới thiệu về cuộc triển lãm
Bộ TT-TT giới thiệu về cuộc triển lãm
Trong đó, có các tư liệu như: Phiên bản của các văn bản Hán Nôm, văn bản Việt ngữ và Pháp ngữ do triều đình phong kiến Việt Nam và chính quyền Pháp ở Đông Dương ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX; các châu bản triều Nguyễn (từ triều Gia Long đến thời Bảo Đại) ban hành liên quan trực tiếp đến vấn đề khai thác, quản lý, xác lập và thực thi chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa…
Triển lãm còn trưng bày một số tư liệu, ấn phẩm do các nước phương Tây biên soạn và xuất bản từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Hình ảnh tư liệu, ấn phẩm về quá trình thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ những năm 1930 đến trận “Hải chiến Hoàng Sa” ngày 19-1-1974.
Tại triển lãm còn có bộ sưu tập 65 bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, phương Tây công bố từ thế kỷ XVII đến nay.
Đáng chú ý trong đó có sưu tập gồm 4 bản đồ (atlas) và 30 bản đồ do các nhà nước Trung Quốc xuất bản và phát hành chính thức qua các thời kỳ lịch sử cho thấy Trung Quốc không hề quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại triển lãm cũng trưng bày hình ảnh, tư liệu về hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của huyện đảo Trường Sa trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu về Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam diễn ra từ ngày 19-7 đến 23-7 tại Bảo tàng tỉnh Đồng Nai.
Tin-ảnh: X.Hoàng

Sunday, July 17, 2016

Độc lập, tự do và chủ quyền bất biến


PGS.TS NGUYỄN MẠNH HÀ - nguyên viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - nhấn mạnh như vậy trong cuộc trò chuyện với phóng viên Tuổi Trẻ nhân kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước 17-7-1966 với câu nói bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Độc lập, tự do và chủ quyền bất biến
* Thưa ông, 50 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, trong đó khẳng định tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Sau nửa thế kỷ và trong bối cảnh mới, ông có cảm nhận gì?
- Trước hết, chúng ta cần nhìn lại bối cảnh lịch sử cụ thể khi Bác Hồ ra lời kêu gọi ấy. Đó là giữa năm 1966, khi Mỹ ồ ạt đưa quân (khoảng 30 vạn) vào miền Nam, mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc (ngày 29-6-1966, máy bay Mỹ ném bom kho xăng Đức Giang, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).
Những sự kiện này cho thấy bước leo thang chiến tranh mới của Mỹ, mở rộng chiến tranh ra toàn Việt Nam.
Nghiên cứu vấn đề này, tôi cho rằng còn một trong những lý do để Bác ra lời kêu gọi đó là để phản bác đề nghị đàm phán giả hiệu của tổng thống Johnson. Thông qua lời kêu gọi, Bác khẳng định rằng đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, phản đối Mỹ có âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam.
Cũng qua lời kêu gọi, Bác muốn truyền thông điệp tới Liên Xô vì ý họ cũng muốn Việt Nam ngồi lại đàm phán với Mỹ. Ý Bác là Việt Nam chưa thể đàm phán với Mỹ vào lúc đó, bởi Việt Nam muốn có hòa bình thật sự nhưng Mỹ không hề mong muốn điều đó.
Lời kêu gọi của Bác khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh Mỹ để giành bằng được độc lập, tự do cho Tổ quốc mình.
Đọc lời kêu gọi năm 1966 của Bác, chúng ta nhớ lại lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 20 năm trước đó - vào ngày 19-12-1946.
Khi đó chúng ta muốn đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, muốn có hòa bình thật sự nhưng thực dân Pháp không muốn điều đó, họ muốn gây ra cuộc chiến tranh trên khắp cả nước để thực hiện âm mưu tái lập sự thống trị trên toàn bộ đất nước ta.
Hai lời kêu gọi ở hai thời điểm, với hai đối tượng xâm lược khác nhau nhưng thể hiện quan điểm tư tưởng xuyên suốt của Bác là đất nước phải có độc lập, tự do, hòa bình nhưng phải là hòa bình thật sự.
* Theo ông, trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước đặt ra cho chúng ta những vấn đề gì mới?
- Qua nghiên cứu thực tiễn lịch sử, chúng tôi nhận thấy những khi Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta xác định và kiên quyết thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ thì chúng ta thành công, đạt được những kết quả tốt.
Còn có những thời điểm chúng ta bị ảnh hưởng quan điểm, tư tưởng của bên ngoài là những lúc chúng ta không thành công hoặc mắc những sai lầm, khuyết điểm. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đất nước giàu mạnh thì mới có thực lực để bảo vệ được thành quả xây dựng đất nước và có bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ thì mới có điều kiện tốt để xây dựng đất nước.
Hiện nay tình hình quốc tế rất phức tạp khi mà lợi ích dân tộc và lợi ích nước lớn biểu hiện rất rõ, bằng nhiều hình thức khác nhau. Vậy làm sao để có đường lối độc lập, tự chủ?
Chúng ta đã xác định rõ chủ trương ba không: không liên minh quân sự, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự và không liên minh với nước khác để đánh nước thứ ba. Nhưng làm sao để cân bằng được mối quan hệ, không để bị nước nào lôi kéo?
Tôi nghĩ rằng muốn giữ được như vậy trước hết ở trong nước phải làm sao để người dân hiểu rõ và thông suốt được chủ trương, đường lối của lãnh đạo, đó là hậu thuẫn vững chắc nhất cho hoạt động đối ngoại.
Trong vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, đặc biệt đang nổi lên vấn đề trên Biển Đông, người dân mong muốn Đảng và Nhà nước tỏ rõ thái độ mạnh mẽ và kiên quyết hơn nữa. Phương châm ứng xử mà Bác từng nói lấy “dĩ bất biến để ứng vạn biến” cách đây 70 năm, theo tôi, đến nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị thực tiễn trong hoạt động đối ngoại. Độc lập, chủ quyền của đất nước là điều tối thượng, là bất biến.
* Như vậy đặt ra đòi hỏi gì mới trong công tác bảo vệ độc lập, tự do và chủ quyền của Tổ quốc?
- Tôi cho rằng điều cốt yếu là các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền và các lực lượng chức năng phải tỏ rõ sự kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, đặc biệt là chủ quyền biển đảo đang đứng trước nhiều thách thức mới.
Có thể đối phương có lực lượng, trang thiết bị mạnh hơn, thường xuyên tiến hành các hoạt động hăm dọa, tỏ rõ sức mạnh cơ bắp, nhưng chúng ta có chân lý, là người nắm lẽ phải. Vừa rồi Tòa trọng tài quốc tế đã ra phán quyết về vụ kiện của Philippines, trong đó khẳng định việc Trung Quốc tự ý đặt ra “đường lưỡi bò” đòi độc chiếm Biển Đông là không có cơ sở pháp lý.
Đây cũng là cơ sở thuận lợi cho chúng ta trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển đảo hiện nay.
Chúng ta cần phải dựa vào pháp lý để đấu tranh. Người dân trông đợi rằng ngoài các phát ngôn của Bộ Ngoại giao, cần có tiếng nói chính thức từ Quốc hội, Chính phủ về vấn đề này.
Vừa qua, khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội, tôi theo dõi thấy có đại biểu phát biểu rằng việc Quốc hội khóa XIII chưa ra được nghị quyết về Biển Đông, khẳng định chủ quyền của Việt Nam, khẳng định quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là một “món nợ” với cử tri.
Điều này cho thấy rằng cử tri và nhân dân mong muốn chúng ta có phản ứng mạnh mẽ hơn nữa, bày tỏ thái độ dứt khoát hơn nữa trong vấn đề chủ quyền.
LÊ KIÊN - VŨ VIẾT TUÂN thực hiện