Saturday, December 17, 2016

Đối ngoại quốc phòng của Việt Nam rất thành công

Trong tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ 5 diễn ra ở Hà Nội, Giáo sư Can Thay-ơ (Carlyle Thayer) của Đại học New South Wales (Ô-xtrây-li-a) đã nhấn mạnh tới đóng góp quan trọng của đối ngoại quốc phòng trong việc giúp Việt Nam xử lý khéo léo trong các mối quan hệ với những nước lớn, tránh rơi vào cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Can Thay-ơ về nhận định này.

Phóng viên (PV): Giáo sư đánh giá như thế nào về chính sách “3 không” (không liên minh, liên kết; không đi với nước này chống nước kia; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam) của Việt Nam?
Giáo sư Can Thay-ơ:
 Chính sách “3 không” đã được nêu trong Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam. Theo tôi, đây là chủ trương hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay.  Thứ nhất, Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, do đó, liên minh, liên kết là chuyện của quá khứ. Cũng phải thấy rằng, liên minh, liên kết đã thay đổi về bản chất. Ngoại trừ Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) với điều khoản 5-quy định bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào vào một hay một số thành viên của liên minh đều được coi là một cuộc tấn công vào toàn bộ liên minh, còn lại trên thực tế khi một quốc gia gặp thách thức, rốt cuộc quốc gia đó vẫn có thể không nhận được sự giúp đỡ như mong muốn từ một đồng minh vì nhiều lý do chính trị được đưa ra. Như vậy là luôn có rủi ro trong quan hệ đồng minh. Bằng cách xây dựng sức mạnh của riêng mình, Việt Nam không cần phải liên minh với bất kỳ bên nào.
Giáo sư Can Thay-ơ trả lời phỏng vấn. Ảnh: BẢO TRUNG 
Thứ hai, việc cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình sẽ chỉ là trở ngại cho Việt Nam. Nó có thể tạo ra kẻ thù cho Việt Nam trong khi Việt Nam chủ trương muốn thêm bạn chứ không phải kết thù. Thứ ba, việc đi với nước này để chống lại nước kia sẽ phải trả giá trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Trong thế giới đó, Việt Nam ý thức được rằng, chỉ dưới ngọn cờ của Liên hợp quốc, mọi quốc gia mới có cơ hội bình đẳng hơn. Tăng cường hợp tác trong khi vẫn bảo đảm sự tự chủ như Việt Nam đã và đang thực hiện chính là một biện pháp phù hợp. Chính sách “3 không” của Việt Nam không chỉ không đe dọa tới nước nào mà còn làm các nước khác thấy yên tâm.
PV: Theo Giáo sư, đối ngoại quốc phòng của Việt Nam đã đạt được những kết quả như thế nào trong thời gian qua?
Giáo sư Can Thay-ơ: Trước hết phải khẳng định là chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế đất nước. Một ví dụ tiêu biểu là việc Việt Nam được Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu chọn làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 với số phiếu gần như tuyệt đối.
Khi nói đối ngoại của Việt Nam thành công thì tôi phải khẳng định là đối ngoại quốc phòng của Việt Nam rất thành công. Quân đội Việt Nam có kỷ luật nghiêm và luôn sẵn sàng hợp tác. Tôi từng phụ trách một khóa học cho sĩ quan Việt Nam tại Ô-xtrây-li-a.  Họ đều là những người chủ động, tích cực và chuyên nghiệp. Việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc một mặt góp phần tăng cường vai trò của Liên hợp quốc, mặt khác xây dựng được hình ảnh Việt Nam là một đối tác tin cậy. Một kết quả cụ thể khác, đó là nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh. Không chỉ có Mỹ, vốn là trách nhiệm của họ, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ của nhiều nước khác như Anh, Pháp. Tôi không nghĩ là có một nước nào lại cho rằng, những đóng góp của Việt Nam không phải vì lợi ích rộng rãi của nhiều nước.
PV: Phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ 5, Giáo sư cho rằng, thông qua kênh hợp tác quốc phòng, Việt Nam đã nỗ lực tránh bị vướng vào cuộc cạnh tranh chiến lược bằng cách theo đuổi một sự cân bằng đa cực với 7 nước lớn là Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Anh và Pháp, trong khi vẫn bảo đảm sự tự chủ chiến lược của mình. Đề nghị Giáo sư làm rõ hơn nhận định này?
Giáo sư Can Thay-ơ: Trước hết phải khẳng định rằng, sự ổn định và vị thế gia tăng của Việt Nam cũng đem lại lợi ích cho các nước lớn. Thời gian qua, lãnh đạo Việt Nam thường xuyên có các cuộc thăm viếng các nước lớn kể trên, chứ không riêng một nước nào. Hay việc Việt Nam cho phép tàu hải quân các nước ghé thăm cảng quốc tế Cam Ranh cũng là ví dụ cho chủ trương cân bằng đó. Đó chính là lý do tại sao chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa lại được Việt Nam tích hợp vào trong lĩnh vực quốc phòng.
PV: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
HOÀNG VŨ (thực hiện)

Monday, December 12, 2016

Phản đối TQ kỷ niệm cái gọi là ‘70 năm thu hồi Hoàng Sa, Trường Sa’



Hoạt động này của TQ đi ngược lại xu thế phát triển quan hệ hiện nay giữa hai nước, gây phức tạp tình hình, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nêu rõ.
Phản đối TQ kỷ niệm cái gọi là ‘70 năm thu hồi Hoàng Sa, Trường Sa’
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình 
Hôm nay, nói về phản ứng của Việt Nam trước việc ngày 8/12/2016, Hải quân Trung Quốc tổ chức kỉ niệm cái gọi là “70 năm thu hồi Hoàng Sa, Trường Sa”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nêu rõ:
“Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ lâu đời của Việt Nam. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cộng đồng quốc tế đã bác bỏ yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.
Hoạt động nói trên của Trung Quốc không thể làm thay đổi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đi ngược lại xu thế phát triển quan hệ hiện nay giữa hai nước, gây phức tạp tình hình. Việt Nam kiên quyết phản đối”.
Trước đó, một số hãng truyền thống quốc tế đưa tin, Hải quân Trung Quốc ngày 8/12 đã kỷ niệm 70 năm chiếm đóng cái mà họ gọi là quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) ở Biển Đông, khẳng định yêu sách chủ quyền phi pháp tại vùng biển này.
Thái An

Thành tựu lập pháp trong bảo đảm quyền con người của Quốc hội Việt Nam

Thứ ba, 29 Tháng 11 2016 08:52
(LLCT) - Trải qua 70 năm, Quốc hội Việt Nam là hiện thân của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Thông qua hoạt động lập pháp của mình, đường lối, chính sách nhất quán về bảo vệ quyền con người được thể chế hóa ngày càng hoàn thiện, đầy đủ. Quốc hội thể hiện vai trò của mình trong việc xác lập cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người. Nội dung quyền con người không ngừng được quy định đầy đủ. Cơ chế bảo vệ quyền con người không ngừng được hoàn thiện, tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Ngày nay, quyền con người đã trở thành vấn đề tâm điểm trên phạm vi toàn thế giới, là nội dung quan trọng trong các chương trình nghị sự quốc tế, hoạt động của các tổ chức trong và ngoài nước cũng như các hiệp định song phương và đa phương. Bảo vệ quyền con người đồng thời là yêu cầu của cuộc sống và sự tiến bộ xã hội đối với các quốc gia và trên toàn thế giới.
Trải qua 70 năm hình thành, phát triển từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (6-1-1946-6-1-2016), Quốc hội Việt Nam là hiện thân của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Thông qua hoạt động lập pháp của mình, đường lối và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền con người đã được Quốc hội thể chế hóa ngày càng hoàn thiện, đầy đủ.
Đồng thời, thông qua việc thực hiện các quy định của luật do Quốc hội ban hành, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt.Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, đạt được nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Quyền của các nhóm chịu thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật... được bảo đảm tốt hơn, các quyền tự do và dân chủ của người dân ngày càng được bảo đảm trên thực tế.  
1. Xác lập cơ sở hiến định bảo vệ quyền con người
Ngay từ ngày đầu thành lập (năm 1946), Quốc hội Việt Nam đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc xác lập cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người. Các bản Hiến pháp do Quốc hội ban hành, từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, 1980,1992 đều thể hiện tư tưởng xuyên suốt là bảo vệ quyền con người.
Đặc biệt, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp mới 2013 tái khẳng định, đề cao và quy định quyền con người, quyền công dân một cách đầy đủ, toàn diện và rõ ràng hơn. Hiến pháp 2013 có thể được coi là một bản hiến chương về quyền con người ở Việt Nam vì đã hàm chứa đầy đủ và toàn diện một hệ thống các quyền con người hiện đại, là một bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền và thể chế hóa quyền con người ở Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ nhất,  đã bổ sung nhiều quyền mới mà Hiến pháp 1992 và các hiến pháp trước đó đều chưa quy định;mở rộng phạm vi bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên cả mọi lĩnh vực từ dân sự, chính trị, kinh tế đến xã hội, văn hóa.Đó là quyền của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác; quyền sống; quyền có nơi ở hợp pháp; quyền hưởng an sinh xã hội; quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền sống trong môi trường trong lành...
Thứ hai, đã làm rõ hơn nội hàm của các điều về quyền con người trong Hiến pháp 1992 bằng cách quy định đầy đủ, chính xác hơn hoặc tách thành điều riêng. Đó là các quyền: bình đẳng trước pháp luật; cấm tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình; bảo vệ đời tư và nơi ở; tiếp cận thông tin; tham gia quản lý nhà nước và xã hội; bình đẳng giới; bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân; tố tụng công bằng; sở hữu tư nhân; lao động, việc làm. Hiến pháp cũng có riêng một điều quy định bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, đặc biệt quyền tham gia của trẻ vào các vấn đề liên quan đến các em.
Thứ ba, ở một số chương khác của Hiến pháp 2013 còn có những quy định mới  có ý nghĩa quan trọng về việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân, tiêu biểu là:Các quy định củng cố quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện qua Lời nói đầu;Tại Điều 2 khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Điều 4 xác định Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Điều 6 xác định cách thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; Điều 70 bỏ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến; Điều 120 quy định về nghĩa vụ của Ủy ban dự thảo Hiến pháp phải tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp và khả năng Quốc hội quyết định “trưng cầu ý dân về Hiến pháp”.
Thứ tư, sự tương thíchgiữa các quy định của Hiến pháp 2013 với các công ước quốc tế về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Đó là lần đầu tiên, Hiến pháp 2013 đề cập đến khái niệm “cấm tra tấn”; đồng thời, quy định cụ thể cấm bất kỳ hình thức bạo lực, đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tất cả mọi người. Điều này tạo cơ sở hiến định để nội luật hóa và thực thi hiệu quả Công ước của Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặctrừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người mà Quốc hội Việt Nam vừa phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8 cuối năm 2014 vừa qua.
Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định nguyên tắc rất quan trọng về giới hạn quyền, theo đó, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Xét ở những khía cạnh chủ chốt, quy định ở Hiến pháp 2013 đã tương thích với quy định của pháp luật quốc tế về nguyên tắc hạn chế quyền.
Về trách nhiệm của Nhà nước, trong Hiến pháp 1992 chỉ đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng. Hiến pháp 2013 ghi nhận cả ba nghĩa vụ, đó là “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người” không chỉ bảo đảm sự hài hòa với luật nhân quyền quốc tế, mà còn tạo cơ sở hiến định ràng buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những nghĩa vụ về quyền con người, quyền công dân trong thực tế, đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm.
Việc điều chỉnh đổi thuật ngữ đượcquy định trong Hiến pháp 1992 sang quyền tiếp cậncủa Hiến pháp 2013 có ý nghĩa rất lớn, bởi quyền tiếp cận thông tin theo luật quốc tế không chỉ bao gồm quyền được [tiếp nhận] thông tinnhư trong Hiến pháp 1992 mà còn bao gồm hai quyền khác đó là quyền được tìm kiếm/yêu cầu cung cấp thông tin vàquyền được chia sẻ, phổ biến thông tin.
Hiến pháp 2013 quy định nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giớithay cho quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệtđối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ đượcnêu ở Hiến pháp 1992. Điều này làm thay đổi quan niệm và cách tiếp cận cũ về bình đẳng giới (nhấn mạnh sự phân biệt đối xử với riêng một giới là phụ nữ) sang quan điểm mới, đó là bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Đây là cách tiếp cận phù hợp với thực tế và với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế; tạo điều kiện để thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta lên một bước mới, có tính cân bằng, thực chất và hiệu quả hơn.
Những quy định trên đây cho thấy việc hiến định các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013 đã bám sát các quy định của luật nhân quyền quốc tế và tiếp thu những tiến bộ gần đây trong hiến pháp của một số quốc gia. 
Thứ năm, các quy định mới của Hiến pháp 2013 ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm, phương hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền con người, quyền công dân theo các giá trị chung mang tính phổ quát của nhân loại.
Đó là nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 là không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được diễn đạt lại thành“người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Với quy định mới này, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải cân bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ. Họ sẽ phải tìm kiếm và coi trọng cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội, thay vào việc chỉ tập trung tìm chứng cứ để chứng minh bị can là có tội, nếu không tìm được chứng cứ như vậy thì bị can được coi là vô tội.
Về chủ thể của quyền đòi bồi thường, Hiến pháp 2013 đề cập cụ thể hơn đến người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật.
Về nội hàm của quyền được bồi thường, nếu như Hiến pháp 1992 chỉ đề cập đến những thiệt hại về vật chất thì Hiến pháp 2013 quy định cả thiệt hại về tinh thần.Tương ứng, các hành vi bị coi là trái pháp luật trong tố tụng hình sự từ Hiến pháp 1992 gồm bắt, giam giữ, truy tố, xét xử được mở rộng trong Hiến pháp 2013 đến bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác.
Chủ thể của quyền sở hữu tư nhân được mở rộng từ “công dân” trong Hiến pháp 1992 sang “mọi người” trong Hiến pháp 2013. Sự mở rộng này phù hợp với thực tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, khi mà các thể nhân, pháp nhân nước ngoài có mặt làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều ở nước ta.
Bên cạnh sự mở rộng quan trọng về chủ thể, Hiến pháp 2013 nêu rõ: Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.Quy định bổ sung này một lần nữa nhấn mạnh việc Nhà nước cam kết tôn trọng quyền sở hữu tư nhân, đồng thời xác lập khuôn khổ hiến định cho sự can thiệp của Nhà nước vào quyền này, qua đó ngăn ngừa những hành động tùy tiện của các cơ quan, quan chức nhà nước xâm phạm quyền sở hữu tư nhân.
2. Nội dung về quyền con người không ngừng được quy định đầy đủ
Các nội dung về quyền con người, quy định các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người, ban hành nhiều văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các quyền con người. Chỉ tính từ giữa năm 1992 (là thời điểm Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực thi hành) đến hết năm 2008, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 547 văn bản luật, pháp lệnh và nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản này đã quy định một cách khá đầy đủ và toàn diện về quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội,... cũng như về cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền đó. Cụ thể như sau:
Trong lĩnh vực chính trị,các quyền và nghĩa vụ thể hiện tập trung ở việc công dân được tham gia thực hiện quyền lực nhà nước.Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền bầu cử, ứng cử của công dân, các luật: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Thực tế các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã diễn ra một cách dân chủ theo đúng quy định của pháp luật.
Trong nhiều văn bản luậtđã quy định cụ thể các quyền của công dân tham gia trực tiếp và gián tiếp vào công việc quản lý nhà nước, như quyền được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, giám sát. Riêng quyền thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết về quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Pháp lệnh về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường. Ðây là một nét khá đặc sắc của Việt Nam trong việc phát huy và thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, được bạn bè quốc tế ghi nhận.
Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,các quyền và nghĩa vụ học tập; quyền và nghĩa vụ lao động; quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe; quyền về nhà ở; quyền sở hữu, tự do kinh doanh,... đều được cụ thể hóa trong các luật như: Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân; Bộ luật Lao động; Luật Bình đẳng giới; Luật Nhà ở...
Trong các quyền nêu trên, tự do kinh doanh là một quyền rất cơ bản được quy định trong Hiến pháp.Ðể cụ thể hóa vấn đề này, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều văn bản luật, như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Ðầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Hàng hải...
Về các quyền liên quan đến phụ nữ và trẻ em,đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, góp phần quan trọng vào những thành tựu về bảo đảm và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em. Luật Bình đẳng giới cùng với các quy định về quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chế độ thai sản, chế độ đối với lao động nữ,... đã tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; đồng thời, góp phần phòng, chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em.
Các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập, được phát triển; quyền được vui chơi, giải trí;... đều được cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật.
Về các quyền nhân thân,Quốc hội đã quy định khá cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.Trong nhóm các quyền này, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự do cá nhân đặc biệt quan trọng, được các bản Hiến pháp nước ta quy định.  Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ những trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt hoặc giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. Hiến pháp còn quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Ðể bảo đảm thực thi những quy định đó,Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan nhiều đến các quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân của công dân. Trong các văn bản pháp luật này, ngoài việc quy định cụ thể về quyền bất khả xâm phạm của công dân, còn thể hiện tính chất nhân đạo của Ðảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, như về việc đặc xá; bảo đảm quyền bào chữa, quyền khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo; về chế độ thăm nuôi, nhận quà và đặc biệt là về chế độ ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh cho phạm nhân.
Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã quy định, công dân bị thiệt hại do bị oan có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Mới đây, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã xem xét, thông qua Bộ luật hình sự (sửa đổi) theo hướng bỏ bớt hình phạt tử hình đối với một số tội danh.
Quyền khiếu nại, tố cáo cũng là một trong những quyền quan trọng của công dân, được pháp luật bảo vệ.
Ðiểm đáng chú ý là, Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: công dân, tổ chức khi thực hiện quyền khiếu nại, có quyền lựa chọn việc khiếu nại đến các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án bằng con đường tố tụng tư pháp; trong quá trình khiếu nại, tố cáo, công dân có quyền nhờ luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về quyền tự do tín ngưỡng, các bản Hiến pháp đều quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Ðể thực hiện các quy định này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hànhPháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Cơ chế bảo vệ quyền con người không ngừng được hoàn thiện         
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp, trong từng thời kỳ, Quốc hội đã ban hành các đạo luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã tạo lập nên hệ thống các cơ quan tư pháp: tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân các cấp để tổ chức thực hiện quyền tư pháp, trong đó, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được luật định ngày càng cụ thể, chi tiết và đặc biệt là hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Hiến pháp 2013 lần đầu tiên đề cập đến cụm từ “cơ chế bảo vệ Hiến pháp” và xác định Nhân dân là một trong các chủ thể bảo vệ Hiến pháp. Đây là tiền đề để bảo vệ nhân quyền ở cấp cao nhất, bởi xét đến cùng, bảo hiến chính là bảo vệ các quyền hiến định.
Ngoài ra, một loạt các điều khoản sửa đổi khác trong Hiến pháp 2013 cũng có ý nghĩa tăng cường cơ chế bảo vệ nhân quyền, trong đó quy định nhiệm vụ mới của Chính phủ là bảo vệ quyền con người, quyền công dân; của Tòa án nhân dân bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; xác định nhiệm vụ mới của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những quy định này gắn liền trách nhiệm của các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì trước đó ở Việt Nam, trách nhiệm và bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền thường chỉ được gắn với cơ quan lập pháp - Quốc hội.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã xác lập cở sở pháp lý cho việc triển khai công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời, Quốc hội đã thường xuyên tiến hành hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật, coi đây là một nhiệm vụ rất quan trọng bảo đảm cho luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội được thực hiện trong thực tế.  
Các cuộc giám sát chuyên đề, giám sát cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân ngày càng được tăng cường, như: giám sát việc thi hành Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra; giám sát công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tạo việc làm cho người dân có đất bị thu hồi; giám sát việc chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của công dân...
4. Tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
Quan điểm của Việt Nam khi tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người là coi việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi nhân quyền là quyền và nghĩa vụ quan trọng nhất của tất cả các quốc gia. Mọi quốc gia đều phải chịu trách nhiệm trong việc xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương của Liên Hợp quốc, có tính đến tình hình của từng nước cụ thể, để bảo đảm rằng người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất. 
Đến nay, Việt Nam đã tham gia Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 và đã  ký, phê chuẩn 7 trong số 9 công ước cơ bản về quyền con người. Việt Nam cũng đã ký và phê chuẩn 2 Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em là Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em vào xung đột vũ trang[1] và Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em, về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em(1).
Ngoài các công ước do Liên Hợp quốc thông qua, còn có các công ước do các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc ban hành. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) kể từ khi thành lập đến nay đã thông qua hơn 190 công ước, trong đó có 8 công ước được coi là cơ bản,hay còn gọi là8tiêu chuẩn lao động cốt lõi về nhân quyền,Việt Nam đã phê chuẩn 5/8công ướcnày(2).
Trong gần 70 năm qua, nhờ kiên trì thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp điều chỉnh quyền con người, quyền công dân.
Nội dung của các đạo luật được ban hành đã cố gắng đến mức tối đa nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về quyền con người. Cụ thể là trong từng đạo luật đều có quy định có tính nguyên tắc, “trường hợp các quy định của luật trái với các quy định của điều ước quốc tế thì ưu tiên thực hiện điều ước quốc tế.” Đồng thời, Quốc hội cũng tuân thủ quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là các quy định của nội luật “không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. 
Các đạo luật của Quốc hội ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, thực hiện các sinh hoạt văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo,... Ðó là những thực tế mà người dân ai cũng biết, được bạn bè quốc tế khẳng định và không ai có thể xuyên tạc được.
_______________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3 - 2016
(1) Nghị định thư không bắt buộc bổ sung của Công ước quốc tế về Quyền của trẻ em về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em (CRC-OP-SC) ký ngày 8-9-2000 và phê chuẩn ngày 20-12-2001.
(2) Công ước số 29 về Lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; gia nhập ngày 5-3-2007; Công ước số 100 về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau; gia nhập ngày 7-10-1997; Công ước số 111 về Không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; gia nhập ngày 7-10-1997; Công ước số 138 về Tuổi lao động tối thiểu; gia nhập ngày 24-6-2003; Công ước số 182 về việc Cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; gia nhập ngày 19-12-2000.

TS Ngô Đức Mạnh
Phó Chủ nhiệm
Ủy ban đối ngoại của Quốc hội

Tuyên dương “Những tấm gương thầm lặng mà cao cả”

Thứ Bảy, 26/11/2016, 15:49:45

Các gương điển hình trong lễ tuyên dương giao lưu với khán giả.

NDĐT - Sáng 26-11, tại Hội trường Thành phố, UBND thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Ủy ban MTTQ Thành phố tổ chức Lễ tuyên dương “Những tấm gương thầm lặng mà cao cả” trong phong trào thi đua yêu nước của thành phố lần 2, năm 2016.
Đồng chí Đinh La Thăng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy TP Hồ Chí Minh; đồng chí Đặng Thị Ngọc Thịnh - Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước đã đến dự buổi lễ.
Năm nay, qua phát hiện, giới thiệu của các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo, đài, và hệ thống chính trị địa phương, Ban tổ chức đã chọn ra 25 tập thể và 113 cá nhân để tuyên dương.
Các tập thể, cá nhân được tuyên dương là những gương điển hình có hoạt động, việc làm xuất phát từ tinh thần tự nguyện, tự giác, không vụ lợi cho bản thân, đậm chất nhân văn, nhân đạo, nghĩa tình và mang lại hiệu quả thiết thực.
Đó là những đóng góp âm thầm tự nguyện trong thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cuộc vận động “Vì người nghèo”, phong trào “ba tiết kiệm, ba tương trợ”, phong trào “Cả thành phố chung sức xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh Tổ quốc, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, khuyến học khuyến tài.
Tại buổi lễ, các đại biểu đã được gặp gỡ giao lưu với những bông hoa tiêu biểu trong vườn hoa người tốt “thầm lặng mà cao cả” năm nay. Các đại biểu không sao quên được bà Nguyễn Thị Hiếu (quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh) dù tuổi đã cao nhưng ngày ngày vẫn luôn quan tâm đến hoàn cảnh của những người nghèo, những mảnh đời bất hạnh.
Mỗi năm, bà Hiếu đều tiết kiệm từ lương hưu để mua hàng trăm phần quà chăm lo Tết cho người nghèo và vận động người thân, các nhà hảo tâm xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, vận động y bác sĩ tham gia khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho dân nghèo.
Lãnh đạo TP Hồ Chí Minh trao bằng khen cho “những tấm gương thầm lặng mà cao cả” được tuyên dương năm 2016.
Khán giả cũng vô cùng xúc động về câu chuyện của cô Đinh Thị Kim Phấn, cư ngụ tại phường Đa Kao, Quận 1. Từ hơn 5 năm nay, cô Phấn đã mở lớp học đặc biệt dành cho những bệnh nhi ở Bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh. Trong suốt quãng thời gian đó, cô Phấn đã cất giữ hơn 300 quyển vở của hơn 300 bệnh nhi đã đến với học chữ.
Dù nhiều em đã đi xa, nhưng với cô Phấn, các em vẫn như ở bên cô qua những quyển vở, những nét chữ thân thương. Cô luôn tự nhủ: “Mình cho ít mà nhận được nhiều ở lớp học chữ ý nghĩa này”, để qua đó, cô nỗ lực cùng bệnh nhi ung thư sống trọn vẹn ước mơ của các em…
Phát biểu tại lễ tuyên dương, đồng chí Đặng Thị Ngọc Thịnh, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước đã biểu dương những gương điển hình “thầm lặng mà cao cả” được tôn vinh trong những năm qua và hôm nay.
Đồng chí mong muốn, trong thời gian tới, TP Hồ Chí Minh cần tiếp tục phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng những điển hình tiên tiến trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo sự lan tỏa rộng khắp, trở thành phong trào thi đua, nhất là phong trào toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh tin tưởng Lễ tuyên dương “Những tấm gương thầm lặng mà cao cả” tiếp tục được duy trì, phát huy tốt trong thời tới và sẽ có thêm nhiều tấm gương được phát hiện, tôn vinh để TP Hồ Chí Minh mãi mãi xứng đáng là thành phố mang tên Bác.
TIN, ẢNH: LINH BẢO

Toà thánh Vatican đánh giá cao các thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam

09:19 24/11/2016
Nhận lời mời của Giáo hoàng francis, vào hồi 17h 30' (giờ địa phương) ngày 23/11/2016, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang đã thăm Tòa thánh Vatican, hội kiến Giáo hoàng Francis và gặp Thủ tướng Tòa thánh - Hồng y Pietro Parolin. 
Cùng dự có Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải; Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn; Thứ trưởng Bộ Công an - Thượng tướng Bùi Văn Nam.
Từ nhiều năm nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân. 
Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp kiến Giáo hoàng Francis. Ảnh: TTXVN
Bản thân Giáo hoàng Francis, trong cuộc hội kiến với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cách đây 2 năm cũng đã thừa nhận chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đạt nhiều kết quả; các hoạt động ngày càng sôi động với các Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam cùng việc tổ chức  những ngày lễ trọng của Công giáo như Lễ hội hành hương La Vang, Đại hội Giới trẻ Công giáo...
Tại buổi hội kiến, Giáo hoàng Francis hoan nghênh và đánh giá cao chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đại Quang, cho đây là dịp để Việt Nam và Tòa thánh tăng cường hiểu biết lẫn nhau, qua đó thúc đẩy quan hệ hai bên. 
Nhắc lại ấn tượng tốt đẹp về các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao Việt Nam những năm qua; Giáo hoàng Francis bày tỏ tình cảm yêu mến Việt Nam và khẳng định, Tòa thánh đánh giá cao các thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam; đặc biệt hoan nghênh việc Việt Nam lấy ý kiến xã hội rộng rãi trước khi thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang tặng quà lưu niệm cho Giáo hoàng Francis. Ảnh: TTXVN
Chủ tịch nước Trần Đại Quang cảm ơn những tình cảm tốt đẹp mà Giáo hoàng đã dành cho Việt Nam; bày tỏ vui mừng trước các bước tiến triển khích lệ trong quan hệ hai bên thời gian qua; khẳng định Việt Nam trước sau luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và đang nỗ lực không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để bảo đảm các quyền đó.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Giáo hoàng Francis đánh giá cao các đóng góp tích cực của cộng đồng Công giáo Việt Nam thời gian qua; nhất trí đánh giá quan hệ Việt Nam - Tòa thánh Vatican đã có bước tiến triển tích cực, thể hiện qua các cuộc tiếp xúc cấp cao những năm gần đây và việc hai bên duy trì đối thoại thông qua cơ chế Nhóm Công tác hỗn hợp (cuộc họp gần đây nhất là từ ngày 24 tới 26-10-2016 giữa Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn và Thứ trưởng Ngoại giao Toà thánh Vatican Antoine Cannilleri). 
Trong khuôn khổ chuyến thăm Tòa thánh Vatican, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã hội kiến Thủ tướng Vatican Parolin. Ảnh: TTXVN
Giáo hoàng Francis khẳng định Tòa thánh mong muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam. Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Giáo hoàng Francis nhấn mạnh việc Giáo hội Công giáo Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, sống tốt đời đẹp đạo giáo dân tốt là công dân tốt; thống nhất duy trì đối thoại, tiếp xúc giữa hai bên.
Cuộc gặp dã diễn ra trong bầu không khí chân thành, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau. Chủ tịch nước Trần Đại Quang cảm ơn sự đón tiếp trọng thị của Giáo hoàng và Tòa thánh dành cho Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.
Nhân dịp này, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã có cuộc gặp và trao đổi với Thủ tướng Tòa thánh - Hồng y Pietro Parolin về tình hình Công giáo Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Vatican.
Phạm Khải (từ Milan, Italia)

Thành tựu to lớn là nhờ đại đoàn kết toàn dân

00:51 14/11/2016
Thư Kỳ
ANTD.VN - Sáng 13-11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dự Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, kỷ niệm 86 năm ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18-11-1930/18-11-2016), tại thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. 
Cùng tham dự Ngày hội có Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân; Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh Nguyễn Nhân Chiến; lãnh đạo nhiều ban, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương, cùng đông đảo bà con nhân dân trên địa bàn. 
Điểm lại những thành tựu to lớn mà đất nước ta, nhân dân ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, uy tín, vị thế quốc tế như bây giờ.
Để có được những thành tựu to lớn đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đề ra đường lối chủ trương đúng đắn, huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngay từ đầu, một sáng kiến lớn của Đảng ta là ngày 18-11-1930 đã thành lập Hội phản đế đồng minh, tiền thân của Mặt trận Tổ quốc ngày nay… 
Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Vai trò của Mặt trận rất lớn. Việc thành lập Mặt trận là một yêu cầu khách quan của Cách mạng, là sự sáng suốt, sáng tạo của Đảng ta”. 
Tổng Bí thư chỉ rõ: Chúng ta có tổ chức Mặt trận và hoạt động mặt trận là rất bổ ích và cần thiết. Trong điều kiện ngày nay, Mặt trận ngày càng sáng tạo, sáng kiến, gần đây tổ chức ngày hội đại đoàn kết toàn dân, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, rồi cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh… với nội hàm rộng lớn, phong phú hơn.
Tổng Bí thư phân tích, thời gian tới, tình hình còn diễn biến phức tạp, bên cạnh thuận lợi cơ bản đất nước ta còn nhiều khó khăn thách thức, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội nhập quốc tế, nhiều ảnh hưởng bên ngoài, tốt có, tích cực có, tiêu cực cũng có.
Tổng Bí thư mong rằng, nhân Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng, của MTTQ Việt Nam, tiếp tục phát huy những thành tích, kinh nghiệm đã đạt được.

Sunday, December 11, 2016

Việt Nam đạt nhiều thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế

15:19, Thứ Tư, 09/11/2016 (GMT+7)
(VnMedia) - Báo cáo "Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công – Quy định và thực tiễn ở Việt Nam" cho rằng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế trong ba thập kỷ vừa qua. 
 
Thông tin trên được đưa ra tại báo cáo chung của Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam được công bố ngày hôm nay (9/11), với hỗ trợ của Chính phủ Vương Quốc Anh.
 
Theo báo cáo này, Việt Nam có thể nâng cao liêm chính và hiệu quả của khu vực công bằng cách, bổ sung quy định và pháp luật kiểm soát các hình thức xung đột lợi ích phổ biến như nhận quà biếu, ưu ái người thân, hoặc sử dụng thông tin nội bộ để trục lợi cá nhân.
 
Báo cáo "Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công – Quy định và thực tiễn ở Việt Nam" cũng chỉ ra rằng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế trong ba thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường đã thúc đẩy tương tác ngày càng tăng giữa khu vực công và tư, và do đó cần phải giải quyết những xung đột lợi ích phát sinh trong quá trình tương tác này thông qua luật pháp và thực thi chính sách tốt hơn.
 
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Báo cáo cũng cho thấy, hiểu biết về xung đột lợi ích trong xã hội và trong bản thân cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, nhiều hình thức xung đột lợi ích khác nhau ở khu vực công đã trở thành luật chơi, gây suy giảm hiệu quả và liêm chính trong các thiết chế công.   
 
“Việt Nam khát vọng trở thành một quốc gia thịnh vượng với thể chế hiện đại vào năm 2035,” theo ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. “Kiểm soát xung đột lợi ích là điều kiện thiết yếu để đạt được khát vọng đó, vì nó giúp định hình các thể chế, luật lệ và quy định của nhà nước và thị trường cho thế hệ tiếp theo".
 
Báo cáo với kết quả khảo sát người dân, doanh nghiệp, cán bộ, công chức và viên chức cho thấy, đòi hỏi ngày càng tăng của xã hội về sự minh bạch, hiệu quả và liêm chính trong các quyết định phân bổ nguồn lực công.
 
Báo cáo cũng cho thấy quản lý đấu thầu, cấp phép và phê duyệt dự án, bổ nhiệm và tuyển dụng là ba lĩnh vực với các tình huống xung đột lợi ích phổ biến nhất. Để kiểm soát xung đột lợi ích hiệu quả, báo cáo đưa ra ba nhóm khuyến nghị như sau:
 
Trước tình hình trên, Báo cáo khuyến nghị chính phủ thông qua một định nghĩa thống nhất về xung đột lợi ích cũng như cơ chế ngăn ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm về xung đột lợi ích trong khuôn khổ pháp lý về quản trị công ở Việt Nam. Điều cần làm nữa là mở rộng phạm vi áp dụng của các quy định về xung đột lợi ích, như nhận quà biếu, việc làm ngoài công vụ, kê khai thu nhập - tài sản cho các chủ thể có quan hệ mật thiết với công chức; Phân công đầu mối theo dõi, hỗ trợ, khuyến nghị giải pháp xử lý vi phạm và tình huống liên quan đến xung đột lợi ích.
 
“Kiểm soát xung đột lợi ích một cách hiệu quả không chỉ giúp nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực công mà còn tăng cường liêm chính và phòng chống tham nhũng ở khu vực công. Tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ nghiêm túc xem xét đưa ra các biện pháp cải cách thể chế trong lĩnh vực này”, theo lời của ông Giles Lever, Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam.  
 
Yến Nhi

Tọa đàm “35 năm thành lập Giáo hội phật giáo Việt Nam: Thành tựu và phát triển”

16:59 05/11/2016

Giáo hội Phật giáo Việt Nam vừa tổ chức cuộc Tọa đàm kỷ niệm với chủ đề: “35 năm thành lập Giáo hội phật giáo Việt Nam: Thành tựu và phát triển”.

Tham dự có đồng chí Trần Tấn Hùng, Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ cùng đại diện lãnh đạo Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, Ban trị sự các tỉnh, thành phố.
Quang cảnh tọa đàm (ảnh:VL)
Phát biểu tại buổi Tọa đàm, đồng chí Trần Tấn Hùng, Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ khẳng định, những thành tựu đạt được của Giáo hội Phật giáo Việt Nam suốt 35 năm qua liên tục ổn định, phát triển chính là thể hiện tinh thần đoàn kết hòa hợp của các hệ phái trong ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đáng chú ý, những hoạt động hợp tác thân hữu với các tổ chức quốc tế, tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc năm 2008, Diễn đàn Thượng đỉnh Phật giáo ASEAN 2016 cũng như các hội nghị quốc tế trong và ngoài nước… Đó là những việc làm thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, những hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã giúp cho đời sống tâm linh của những người theo Phật và nhân dân ngày một phát triển và hoàn thiện; đồng thời còn làm tốt việc hướng dẫn tăng ni, phật tử hoạt động tôn giáo thuần túy, tu dưỡng đạo đức, xây dựng tinh thần hòa hợp trong cuộc sống, hòa bình cho nhân loại.
Nhiều ý kiến tại cuộc Tọa đàm khẳng định: Ngày nay, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và Phật giáo Việt Nam cũng liên tục đạt được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua nhiều vị Giáo phẩm tăng ni đã tham gia việc nước, việc dân như ứng cử đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Với chủ trương mỗi chùa chiền là một cơ sở giáo dục, là nơi hướng dẫn đời sống tâm linh cho mọi người, hàng năm Phật giáo Việt Nam còn làm tốt công tác từ thiện xã hội trên 2.000 tỷ đồng/năm. 
Tại cuộc Tọa đàm, nhiều tham luận đã cung cấp thêm nhiều thông tin bổ ích, những giải pháp để phát huy vai trò, vị trí văn hóa các giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của Phật giáo trong đời sống xã hội nhằm thực hiện phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.
Để bảo tồn, phát huy nghi lễ Phật giáo Việt Nam, góp phần bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc trong thời hiện đại, Hòa Thượng Thích Huệ Minh, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng: Cần tổ chức biên soạn giáo án, giáo trình về nghi lễ để giảng dạy tại các trường Phật học, các khóa An cư kiết hạ, bồi dưỡng trụ trì tại các tỉnh, thành hội Phật giáo; đối với những nghi thức về nghi lễ vùng miền, Ban nghi lễ các tỉnh, thành cần thành lập Phân ban nghi lễ chuyên trách để thực hiện công tác nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về pháp khí, các bài tán, vịnh, các nghi thức.

Thông tin tại cuộc Tọa đàm nêu rõ, sau 35 năm xây dựng và trưởng thành (7/11/1981 – 7/11/2016), Giáo hội Phật giáo Việt Nam không ngừng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Đáng chú ý là, hiện nay tại 63 tỉnh, thành trên cả nước đã thành lập được Ban trị sự; có 4 trường đại học, 34 trường trung cấp, 8 lớp cao đẳng phật học, đào tạo trên 100 tiến sĩ, 100 thạc sĩ, 2.500 cử nhân, 4.500 tăng ni tốt nghiệp trung cấp Phật học Phật giáo trong cả nước. Bên cạnh đó, các cơ sở chùa chiền và công trình phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo được sửa chữa, trùng tu, xây dựng mới khang trang.
VL

Không thể phủ nhận giá trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam

Thứ Ba, 01/11/2016, 17:07 (GMT+7)
Qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vậy mà, một số người lại cố tình phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội và kết quả công cuộc đổi mới đất nước mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, phấn đấu xây dựng nên - Điều đó thể hiện ý đồ xấu của họ.
Đồng bào, chiến sĩ cả nước và du khách nước ngoài vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh: TTXVN)
Gần đây, các đối tượng phản động đã phát tán một số bài viết nhằm xuyên tạc, đả kích chủ nghĩa xã hội hiện thực, rằng: “chủ nghĩa xã hội: xã hội chủ nô”, “chủ nghĩa xã hội sản sinh ra những con người và xã hội ích kỷ”; “đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin là một sai lầm lịch sử, Việt Nam đang bế tắc về kinh tế”; vu cáo Đảng cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, chuyên chính, quan liêu, v.v. Thực chất đó là cách nói, cách nhận xét phiến diện, phi lý, hoàn toàn không có cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm mục đích phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đang hiện hữu ở Việt Nam, tiến tới đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Lý luận và thực tiễn khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những giá trị mới mà không một chế độ nào trước đó có được; những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên những giá trị của chủ nghĩa xã hội, có sức sống bền vững, đặc biệt là những thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Qua 30 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát triển, kinh tế tăng trưởng khá, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình1. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; cuộc sống của người dân từng ngày được “thay da, đổi thịt”, từ chỗ phải chịu cảnh “thiếu thốn trăm bề, cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, đến nay đã được thụ hưởng đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho sự phát triển bản thân một cách toàn diện. Chính sách an sinh và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, chế độ ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội,… tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về mọi mặt. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công được hưởng chế độ ưu đãi (10% dân số); khoảng 14 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%, vùng đặc biệt khó khăn chỉ còn dưới 30%; 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 61 triệu người tham gia bảo hiểm y tế. Việc phổ cập giáo dục tiểu học được hoàn thành vào năm 2010 (99% trẻ em trong độ tuổi học sinh bậc tiểu học được đến trường). Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho toàn dân. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015. Các quyền cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực được đảm bảo bằng pháp luật và trong thực tiễn. Điều 3 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”2. Các chính sách dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng hoàn thiện và được bảo đảm trong thực tiễn, v.v. Việc Việt Nam được bầu là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (khóa 2014 - 2016)3là sự ghi nhận và khẳng định những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm nhân quyền của Đảng, Nhà nước ta cùng những đóng góp quan trọng về thúc đẩy quyền con người trong khu vực và trên thế giới của Việt Nam.
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh thực hiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ của công dân; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình và xã hội. Quan tâm giáo dục, xây dựng con người Việt Nam với những đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”, có thế giới quan khoa học, phát huy phẩm chất nhân ái, lối sống có trách nhiệm, “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, hội tụ những giá trị “chân - thiện - mỹ”; khẳng định và tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp và nhân văn. Hiện nay, những giá trị mới của con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, sáng tạo, khát vọng vươn lên của người dân Việt Nam đang từng bước được phát triển; những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, như: yêu nước, đoàn kết, “thương người như thể thương thân”,... đã, đang ngày càng được nuôi dưỡng và phát huy. Hàng vạn những “Gương mặt tiêu biểu” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những “Việc tử tế”, những “Tấm gương bình dị mà cao quý”, những nghĩa cử cao đẹp, những chương trình “Trái tim cho em”, “Nâng bước em tới trường”... đang nở rộ, có sức lan tỏa rộng lớn trong toàn xã hội.
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc thông qua các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ giai đoạn 2016 - 2030 (tháng 10-2015), Việt Nam được đánh giá là biểu tượng đấu tranh giành độc lập dân tộc, là hình mẫu về phát triển kinh tế, điểm sáng xóa đói giảm nghèo. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon nhấn mạnh: “Nếu tất cả các nước đều nỗ lực như Việt Nam, chắc chắn thế giới sẽ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới”. Đó là một sự ghi nhận khách quan của quốc tế về thành tựu phát triển và giá trị chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và đó cũng là minh chứng rõ ràng, sống động nhất để phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống của những kẻ chống phá cách mạng Việt Nam.
Trong khi đó, nhìn vào nội tại xã hội tư bản hiện đại vẫn đang tồn tại đầy rẫy những khuyết tật, mâu thuẫn không thể giải quyết, như: thất nghiệp, đói nghèo, bất bình đẳng, khủng bố, v.v. Theo tổ chức từ thiện Oxfam đánh giá: chỉ 85 người giàu nhất thế giới có giá trị tài sản bằng 3,5 tỉ người nghèo; 1% người giàu nhất thế giới chiếm giữ khoảng 110 nghìn tỷ USD. Hiện nay, ở một số nước tỷ lệ người nghèo khá cao, như: Mê-hi-cô 21,4%; Israel 20,9%; Thổ Nhĩ Kỳ 19,2%; Chi-lê 17,8%; Anh 9,5%. Ngay ở Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, chênh lệch giàu - nghèo rất lớn: 1% người giàu có giá trị tài sản hơn 90% người nghèo; 7% người giàu nắm giữ tới 63% tài sản quốc gia; 49,7 triệu người dân Mỹ trong diện nghèo, v.v. Đặc biệt, tình trạng khủng bố, bạo lực, tội phạm, an ninh, phân biệt chủng tộc, sắc tộc diễn ra tràn lan, kéo dài không dứt, nhất là ở các nước phương Tây, Mỹ, khu vực Trung Đông.
Phủ nhận giá trị của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thủ đoạn nham hiểm được các thế lực thù địch thường dùng với mục tiêu hòng phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Song, đó chỉ là sự ảo tưởng của những kẻ ngông cuồng, với bản chất hiếu chiến, xâm lược. Bởi, những thành quả đạt được và giá trị tốt đẹp mà chủ nghĩa xã hội đã mang lại cho nhân dân đang hiện hữu ở Việt Nam. Đó là điều không thể phủ nhận! Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng đang diễn ra quyết liệt, cam go, phức tạp. Thực chất đó là cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới, trong điều kiện mới. Đối với nhân dân ta đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ chân lý, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì thế, chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh này là trách nhiệm cao cả của tất thảy người Việt Nam yêu nước ở trong nước và nước ngoài, trước hết là cán bộ, đảng viên./.
SỸ HỌA - QUANG HỢP
__________
1 - Năm 2015, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD
2 - Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CTQG, H.2014, tr. 9.
3 - Hội đồng gồm 47 quốc gia thành viên đại diện cho tất cả các khu vực, có nhiệm kỳ 3 năm