Saturday, May 4, 2013

Dấu ấn Việt Nam trong ASEAN 45 năm phát triển


Ngày 28/7/1995 đã ghi một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam cũng như trong quá trình phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN trong buổi lễ kết nạp trang trọng với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên bầu trời Brunei Darussalam (nước chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN năm 1995).
Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN 17
Từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia tích cực, chủ động vào hợp tác của ASEAN và có nhiều đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN cũng như trong việc xác định tương lai phát triển, phương hướng hợp tác và các quyết sách lớn của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết , hợp tác, nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của Hiệp hội.
Với mong muốn cùng chung tay xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và thịnh vượng, Việt Nam và các thành viên khác của ASEAN đã vượt qua những khác biệt và tồn tại do lịch sử để lại, đẩy mạnh hợp tác toàn diện trên tinh thần hữu nghị và đoàn kết.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 được coi là bước khởi đầu quan trọng đối với tiến trình mở rộng và phát triển của ASEAN. Ngay sau khi tham gia ASEAN, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Myanmar và Campuchia vào ASEAN, qua đó góp phần hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở Đông Nam Á, mở ra một trang mới của đoàn kết, hữu nghị và hợp tác ở khu vực. Có thể khẳng định rằng, sự hình thành ASEAN-10 là một trong những mốc phát triển quan trọng của Hiệp hội, tạo nền tảng thiết yếu cho ASEAN trở thành một tổ chức khu vực toàn diện, liên kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương như ngày nay.
Về những đóng góp tạo nên dấu ấn Việt Nam trong ASEAN, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh nhấn mạnh, trong 17 năm qua, Việt Nam đã đóng góp chủ động, tích cực và trách nhiệm vào các mục tiêu chung của ASEAN vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong năm 2010, khi Việt Nam đóng vai trò là Chủ tịch ASEAN.
Việt Nam đã đóng góp tích cực trên những lĩnh vực quan trọng, góp phần duy trì đoàn kết trong khối ASEAN cho các mục tiêu chung; trực tiếp đóng góp vào lộ trình xây dựng cộng đồng ASEAN và triển khai Hiến chương, đưa ASEAN đến năm 2015 trở thành một cộng đồng ASEAN đoàn kết, gắn bó, liên kết chặt chẽ về kinh tế và cùng nhau vì mục tiêu hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực.
Trong nỗ lực nâng cao và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ nội khối và ASEAN với các đối tác nhằm tạo sức mạnh chung tay ứng phó với những thách thức (thiên tai, biến đổi khí hậu, khủng hoảng tài chính…) các nước cũng đánh giá cao vai trò đậm nét của Việt Nam, tạo nên một dấu ấn Việt Nam trong ASEAN.
Nhìn lại lịch sử hình thành ASEAN, từ 5 nước thành viên ban đầu (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan) sáng lập nên tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào ngày 8/8/1967 trên cơ sở Tuyên bố Bangkok, đến nay, ASEAN đã hội tụ đủ 10 thành viên.
Sau 45 năm hình thành và phát triển, vượt qua bao thăng trầm và thách thức, ASEAN ngày nay đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực toàn diện, một thực thể chính trị-kinh tế năng động, có vai trò và vị thế quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á-TBD. Với những kết quả đã đạt được, ASEAN hiện đã bước sang giai đoạn phát triển mới hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Thực tiễn 45 năm qua đã cho thấy ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực có sức sống mãnh liệt và khả năng thích ứng nhanh chóng với những biến đổi của thời cuộc. Điều đó thể hiện rõ qua những kết quả hợp tác trong những năm qua và khả năng ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức đặt ra, kể cả các tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu hiện nay. Nổi bật nhất là những nỗ lực để đưa Hiến chương ASEAN đi vào cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho ASEAN gia tăng liên kết khu vực, trước mắt là hỗ trợ mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Những kinh nghiệm, thành công của 45 năm qua cùng với những tiềm năng sẵn có trong nội khối và sự đoàn kết trong một quyết tâm lớn, người dân của 10 nước ASEAN đang cùng hướng tới một Cộng đồng ASEAN thịnh vượng vào năm 2015…
Theo (VGP)

Việt Nam có sức mạnh của lẽ phải trên Biển Đông


Những hành động ngang ngược của Trung Quốc liên tiếp xâm phạm chủ quyền các quốc gia ven Biển Đông trong thời gian gần đây cùng với những luận điệu xuyên tạc về việc như thế nào là tuân thủ luật pháp quốc tế chứng tỏ họ đang tự cho mình cái quyền “làm luật” trên Biển Đông nhằm phục vụ lợi ích dân tộc cực đoan, bất chấp công pháp quốc tế cũng như lợi ích của nhiều quốc gia trên thế giới trong khu vực này.

Mặc dù đồng ý đàm phán với ASEAN để tiến tới xây dựng một Bộ Quy tắc về ứng xử trên Biển Đông (COC), nhưng Trung Quốc luôn ra sức kéo giãn thời gian thực hiện cam kết này bằng mọi cách. Mới đây, nước này còn tuyên bố thẳng thừng rằng “COC không đóng vai trò giải quyết vấn đề Biển Đông, chỉ là biện pháp để xây dựng lòng tin”. Tuyên bố này không làm cho các chuyên gia về Biển Đông ngạc nhiên, bởi từ lâu Trung Quốc dù đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) nhưng cũng luôn cho rằng UNCLOS “không phải là hiệp ước quốc tế để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia, cũng không thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc giải quyết các tranh chấp”. Điều đáng nói là trong khi tuyên bố “một đàng” nhưng khi cần thiết họ vẫn sử dụng UNCLOS “một nẻo” như là căn cứ, cơ sở pháp lý cho các yêu sách về chủ quyền, cho các vùng đặc quyền kinh tế của họ trên Biển Đông, mà đặc biệt là cho yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý.
Hành xử theo phương châm “nói một đàng làm một nẻo” của Trung Quốc trong quá trình áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết các vấn đề trên biển đang làm gia tăng sự lo ngại của thế giới về mục tiêu thật sự của nước này. Có vẻ như Bắc Kinh chỉ muốn diễn giải luật pháp theo kiểu có lợi nhất cho họ và dùng các biện pháp thực tiễn để thi hành luật pháp theo phương thức thực sự chiếm được, hoặc triển khai được các hoạt động trên Biển Đông càng nhiều càng tốt dưới mọi hình thức. Đặc biệt nghiêm trọng là quá trình xuyên tạc, cải biến cách hiểu luật pháp quốc tế của Trung Quốc được tiến hành bài bản, song song với các chiêu thức “làm luật” trên thực địa. Đó là sự đồng loạt gia tăng các hoạt động từ dân sự tới hành chính, từ bán quân sự tới quân sự trên Biển Đông trong thời gian gần đây, đe doạ nghiêm trọng an ninh và an toàn hàng hải quốc tế cũng như xâm phạm chủ quyền của nhiều quốc gia trong khu vực.
Tuy nhiên, chính những hành động “làm luật” bất chấp lẽ phải và luật pháp quốc tế đó của Trung Quốc trên Biển Đông lại đang tạo ra hiệu ứng ngược với mong muốn của họ. Sự bất đồng của ASEAN trong Hội nghị Ngoại trưởng lần thứ 45 tại Phnom Penh vừa qua có thể hiểu theo một góc độ tích cực hơn đó chính là sự thức tỉnh của các dân tộc trong khu vực với quyết tâm mạnh mẽ nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia của mình một cách không khoan nhượng. Bởi lẽ, qua cách hành xử tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN vừa qua nhằm tách khối ASEAN ra thành từng “chiếc đũa”, Trung Quốc đã lộ lá bài tẩy trong âm mưu độc chiếm Biển Đông không từ thủ đoạn nào. Điều này càng khiến cho các quốc gia có quyền lợi liên quan thêm cảnh giác. Cộng đồng thế giới qua diễn đàn khu vực và truyền thông quốc tế càng nhận thấy rõ bộ mặt thật của Bắc Kinh cho dù họ đang cố diễn xuất trò chơi “trỗi dậy hòa bình” đồng thời với việc tăng cường sức mạnh quân sự trên biển nói chung cũng như lực lượng quân sự đồn trú trên Biển Đông nói riêng.
Cuối cùng thì thế giới cũng đang chứng kiến một ASEAN đang gượng đứng dậy sau cú vấp ngã ở Phnom Penh. ASEAN ngay sau đó đã “đạt lập trường chung về Biển Đông” cho thấy những thông điệp mang ý nghĩa nhất định về sự gượng dậy này. Việt Nam được ghi nhận đã đóng vai trò tích cực trong những nỗ lực hàn gắn nói trên. Lập trường của Việt Nam rất nhất quán và được cả quốc tế lẫn ASEAN đánh giá cao. Tất cả 6 nguyên tắc mà Ngoại trưởng Indonesia Natalegawa đưa ra cũng là những nguyên tắc “nền”, là những nguyên tắc căn bản mà Việt Nam đã, đang theo đuổi bao lâu nay. Bản thân Ngoại trưởng Natalegawa sau các cuộc tham vấn tại Hà Nội đã cảm ơn Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh về sự đóng góp tích cực của Việt Nam.
Trước tình hình trên Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp do những động thái càng lúc càng ngang ngược hơn, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc, sự bình tĩnh của Việt Nam là hết sức cần thiết. Thế nhưng, sự bình tĩnh đó cần đồng hành với lập trường cương quyết, sử dụng khéo léo những biện pháp hòa bình theo đúng tinh thần của luật pháp quốc tế và Luật Biển Việt Nam vừa mới ra đời để tạo ra “sức mạnh mềm”. Việt Nam phải dựa vào sức mạnh của lẽ phải, của công lý để đấu tranh không khoan nhượng trên mọi diễn đàn quốc tế, trừ phi bị tấn công bằng vũ lực và có bằng chứng hiển nhiên.
Một việc quan trọng mà Việt Nam cần làm lâu dài và kiên nhẫn là phải tìm cách chứng minh các hành vi vi phạm pháp luật của Trung Quốc với các hồ sơ bằng chứng cụ thể. Đồng thời sử dụng các biện pháp truyền thông tương xứng lên án, vạch trần âm mưu và sự xảo quyệt của họ ra trước công luận quốc tế cũng như trình các hồ sơ này lên các tổ chức có liên quan trên thế giới. Mục tiêu mà Việt Nam cần đạt được là phải cho thế giới thấy rõ tính chính đáng của mình trong bối cảnh Trung Quốc bất chấp pháp luật trong vấn đề Biển Đông.
Để có cơ sở thực hiện những mục tiêu đó, Việt Nam cần xây dựng và củng cố các cơ quan chấp pháp trên biển, theo tinh thần của Luật Biển Việt Nam và công pháp quốc tế để có đủ khả năng quản lý chặt chẽ và chủ động xử lý các tình huống xung đột, va chạm, cũng như đảm bảo cho việc hành nghề hợp pháp của ngư dân trên biển trở nên thuận lợi và an toàn hơn. Trong các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể xử lý theo đúng các qui định của Luật Biển Việt Nam và luật pháp quốc tế. Điều 73, Khoản 1 của Công ước LHQ về Luật Biển ghi rõ: “Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước”.
Đối với các hành động xâm phạm mang tính chất kinh tế, dân sự và bán dân sự của Trung Quốc, Việt Nam có thể sử dụng các biện pháp pháp lý như truy đuổi, yêu cầu ngừng hành vi, phạt hành chính, khám xét, bắt giữ, lập biên bản, dẫn độ và khởi tố theo các điều khoản của Luật Biển Việt Nam và luật pháp quốc tế. Với thái độ ngày một hung hăng và ngang ngược của Trung Quốc, đây là lúc Việt Nam cần kiên quyết và dứt khoát thực hiện các biện pháp trong khuôn khổ luật pháp cho phép để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong phạm vi hòa bình. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể đơn phương kiện Trung Quốc ra trước Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) khi có đầy đủ cơ sở và bằng chứng về việc nước này xâm phạm chủ quyền, vùng đặc quyền kinh tế và lợi ích hợp pháp của Việt Nam.
Chủ nghĩa dân tộc trong thời đại ngày nay vẫn còn là một sức mạnh. Song chủ nghĩa dân tộc cực đoan sẽ chỉ dẫn đến những kết cục không tốt đẹp cho cả những nhà dân tộc chủ nghĩa cực đoan và cả cộng đồng bị dẫn dắt đi vào con đường đầy ảo vọng này. Sức mạnh của truyền thông hiện đại sẽ mở tầm mắt cho nhân dân các nước trên thế giới, kể cả nhân dân của nước đối phương và tạo ra cho họ khả năng nhận rõ sự thật về nhiều vấn đề trong đó có vấn đề thuộc về lương tri, thành quả của nhân loại văn minh trải qua hàng ngàn năm lịch sử phát triển mới có được. Đó là phải loại trừ tư tưởng bành trướng, hành động bạo lực theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” vốn đã không còn phù hợp trong quan niệm cùng tồn tại, cùng phát triển trong thế giới văn minh ngày nay.
Việt Nam có thể tận dụng loại hình sức mạnh này để bảo vệ và khôi phục chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa cũng như các vùng biển khác của mình trên Biển Đông. Kinh nghiệm từ ngàn đời qua của nhân loại cho thấy muốn thắng kẻ thù trước hết phải chiến thắng chính mình. Trong phạm vi dân tộc cũng thế, trước khi chiến thắng ngoại xâm, một dân tộc phải biết vượt qua mọi bất đồng, biết hy sinh, biết đoàn kết thành một khối.
Hữu Nguyên (ĐĐK)

Nhiều hoạt động đền ơn, đáp nghĩa


QĐND Online – Sáng 27-7, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã tổ chức Lễ kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ. Đến dự có các đồng chí lãnh đạo Quân đoàn, các lão thành cách mạng, Anh hùng LLVT nhân dân, thương bệnh binh, con liệt sĩ và đông đảo cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.
Tại Lễ kỷ niệm, Thiếu tướng Nguyễn Hoàng, Tư lệnh Quân đoàn 4, đã phát biểu tôn vinh công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, thương bệnh binh trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đồng thời giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay.
Nhân dịp này, Quân đoàn đã thăm hỏi và tặng quà cho các Anh hùng LLVT nhân dân, lão thành cách mạng và 10 đồng chí là thương binh, con liệt sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong năm qua. Hiện tại, Quân đoàn 4 có 93 đồng chí thương binh, bệnh binh, 27 đồng chí con liệt sỹ.
Trước đó, Quân đoàn 4 đã cử nhiều đoàn công tác đi thăm và tặng tặng quà cho gần 200 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng LLVT nhân dân, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công với số tiền 231 triệu đồng. Quân đoàn cũng tổ chức đến thăm và trao quà cho một số Trung tâm Điều dưỡng thương binh nặng tại tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam và Bà Rịa Vũng Tàu.
5 năm qua, Quân đoàn 4 đã thực hiện hiệu quả nhiều hoạt động đền ơn, đáp nghĩa như: quy tập, cải táng được 241 hài cốt liệt sỹ; trao tặng 424 nhà tình nghĩa giá trị gần 11 tỷ đồng; khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí, tặng quà cho gần 10.000 đối tượng chính sách, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng với số tiền trên 3,7 tỷ đồng...
Ngoài ra, Quân đoàn đã phối hợp với các địa phương xây dựng nhiều công trình có ý nghĩa văn hóa to lớn như: Tượng đài chiến thắng Tàu Ô-Xóm Ruộng vừa được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia; Nhà bia tưởng niệm liệt sỹ suối Mạch Máng, Bia tưởng niệm liệt sỹ Đồng Rùm thuộc xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; Bia tưởng niệm liệt sỹ ở xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để tôn vinh, ghi công các anh hùng liệt sỹ.
Dưới đây là một số hình ảnh về hoạt động đền ơn, đáp nghĩa của Quân đoàn 4:
Thiếu tướng Nguyễn Hoàng tặng quà cho các cán bộ là thương binh, con liệt sĩ tại Lễ kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ.


Bệnh viện 4 – Quân đoàn 4 khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho gia đình chính sách, người có công tại phường Tân Bình, thị xã Dĩ An, Bình Dương
Quân đoàn 4 phát thuốc miễn phí cho người dân
Sư đoàn 7 và Bệnh viện 4 phối hợp về thăm, khám bệnh, phát thuốc miễn phí và tặng quà đồng bào xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập, Bình Phước


Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Chính ủy Quân đoàn 4, cùng lãnh đạo địa phương trao nhà tình nghĩa tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre

Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 9 dâng hoa tưởng niêm anh linh các anh hùng liệt sĩ tại Đền Bến Dược (Củ Chi)
Đoàn thanh niên thuộc Đoàn cơ sở Tiểu đoàn 26, Bộ Tham mưu, QĐ4 thắp nến tri ân tạii nghĩa trang liệt sĩ thị xã Dĩ An (thị xã Dĩ An – Bình Dương)

Quân đoàn 4 tổ chức lễ khánh thành Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ quân đoàn và nhân dân địa phương hy sinh trong chiến dịch Mậu tân 1968 tại xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, Long An

 Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 viếng nghĩa trang liệt sĩ Biên Hòa – Đống Nai

 Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Chính ủy Quân đoàn 4, tặng quà các đối tượng chính sách

Tin, ảnh: Minh Duy – Lê Cầu

Chủ tịch nước gửi thư thăm thương binh, bệnh binh


Ngày 26/7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã gửi thư thăm hỏi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với nước nhân kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7).
Toàn văn bức thư như sau:
“Nhân kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2012), tôi thành kính tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc và thân ái gửi tới các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công trong cả nước lời thăm hỏi ân cần và lời chúc tốt đẹp nhất.

Năm 1947, khi toàn quân, toàn dân ta đang anh dũng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, nhiều người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh, "Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào."
Kế tục và phát huy đạo lý, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và chọn ngày 27/7 hàng năm để nhân dân ta bày tỏ sự biết ơn đối với thương binh, bệnh binh, liệt sỹ, gia đình liệt sỹ và người có công với nước. Người nhắc nhở: "Ðối với những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng."
Thực hiện lời dạy của Người, 65 năm qua, Ðảng, Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, không ngừng hoàn thiện và thực hiện tốt các chế độ, chính sách ưu đãi, chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với nước; các hoạt động "Ðền ơn đáp nghĩa" đã trở thành phong trào sâu rộng, được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân nhiệt tình hưởng ứng và trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của xã hội ta.
Bên cạnh sự quan tâm sâu sắc của Ðảng, Nhà nước và xã hội, nhiều thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với nước đã vượt lên thương tật, khó khăn, đau thương mất mát, không ngừng phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, lao động sản xuất để ổn định cuộc sống gia đình, đóng góp cho cộng đồng và xã hội, xứng đáng là những "Công dân kiểu mẫu," "Gia đình cách mạng gương mẫu," là những tấm gương sáng cho cộng đồng và xã hội noi theo. Tôi nhiệt liệt chúc mừng, biểu dương những nỗ lực cố gắng và những kết quả đáng trân trọng đó.
Chúng ta kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ vào thời điểm cả nước đang tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tôi mong muốn và tin tưởng các đồng chí thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công cả nước tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, nêu gương sáng về phẩm chất đạo đức và ý chí vươn lên, đạt được nhiều thành tích hơn nữa trong các lĩnh vực học tập, công tác, lao động sản xuất, đóng góp nhiều hơn nữa cho quê hương, đất nước.

Nhân dịp này, tôi đề nghị các cấp ủy Ðảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan, đơn vị quan tâm thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với nước; cùng với toàn dân đẩy mạnh phong trào "Ðền ơn đáp nghĩa" để chăm sóc các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với nước có được cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn cùng với sự phát triển của đất nước.
Chúc các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công cả nước mạnh khỏe và hạnh phúc.”./.

Bộ trưởng Trần Đại Quang: Công an nhân dân với phong trào đền ơn đáp nghĩa


Nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2012),  Thượng tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an đã có bài viết “Công an nhân dân với phong trào đền ơn đáp nghĩa”. Ban Biên Tập xin trân trọng giới thiệu bài viết.
Cách đây 65 năm, vào ngày 27-7-1947, trong Thư gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm đau, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”. Thực hiện lời căn dặn của Người, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, mang đậm chất nhân văn, giàu đạo lý “uống nước nhớ nguồn” “ăn quả nhớ người trồng cây”, đã được Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an quan tâm chỉ đạo; được cấp ủy, lãnh đạo công an các cấp và cán bộ, chiến sĩ hưởng ứng bằng những việc làm tri ân thiết thực, đầy nghĩa tình đồng chí, đồng đội, trở thành nét đẹp truyền thống, tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm và ý thức chính trị của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Ngoài việc thực hiện nghiêm túc các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, Bộ Công an đã ban hành nhiều quy định, chính sách đối với thương binh, thân nhân các liệt sĩ và người có công với cách mạng trong Công an nhân dân (CAND), đặc biệt, ngày 31-1-2012, đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-BCA về việc tiếp tục tăng cường công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng và hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong CAND. Đã tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về truyền thống cách mạng, gương chiến đấu anh dũng, hy sinh của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng, qua đó khơi dậy lòng yêu nước, sự biết ơn của thế hệ trẻ đối với cha anh. Đã có nhiều hình thức thu hút các nguồn lực của xã hội, phục vụ việc tổ chức các hoạt động tri ân, đền ơn đáp nghĩa, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công với cách mạng.
Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an cũng đặc biệt quan tâm công tác quy tập mộ liệt sĩ. Đây là việc làm sâu nặng nghĩa tình, ý thức trách nhiệm với những đồng đội đã khuất, không chỉ tác động tích cực tới tâm tư, tình cảm của các gia đình liệt sĩ, mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Lực lượng CAND có hơn 14.000 liệt sĩ hy sinh qua các thời kỳ, trong đó có nhiều liệt sĩ chưa tìm được hài cốt hoặc xác định được danh tính.
Thực hiện Nghị định số 16/2007/NĐ-CP ngày 26-1-2007 của Chính phủ, Bộ đã thành lập 03 ban quy tập mộ và tìm kiếm hài cốt liệt sĩ. Cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ này đã tận tâm, tận lực, không quản gian khổ, khó khăn, nguy hiểm để tìm đồng đội của mình, nhất là với các đồng chí hy sinh ở chiến trường Lào, Cam-pu-chia. Đồng thời, đã làm tốt công tác chăm sóc phần mộ liệt sĩ; tổ chức các lễ báo công, thắp nến tri ân. Đặc biệt, đã tổ chức khắc bia đá tưởng niệm “Danh sách liệt sĩ CAND qua các thời kỳ” tại Khu di tích An ninh Trung ương Cục miền Nam và Nha Công an Trung ương; nâng cấp các khu di tích, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ CAND; sưu tầm, in sách “Danh sách liệt sĩ CAND qua các thời kỳ” để tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ trong CAND tại các khu di tích và nhà truyền thống của công an các đơn vị, địa phương.
Thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, đã tổ chức xác minh, xác nhận những cán bộ hoạt động cách mạng trước ngày 1-1-1945 và cán bộ hoạt động cách mạng từ ngày 1-1-1945 đến trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Lập hồ sơ đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng Chính phủ công nhận các liệt sĩ còn tồn đọng về hồ sơ; thẩm định, giải quyết công nhận và thực hiện chế độ, chính sách đối với hàng nghìn thương binh, hàng trăm hồ sơ bệnh binh; thực hiện chi trả trợ cấp thương tật một lần đối với các trường hợp cán bộ, chiến sĩ công an bị thương trong khi làm nhiệm vụ; thực hiện chế độ, chính sách đối với các anh hùng LLVT nhân dân.
Quỹ Phòng, chống thiên tai, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo trong CAND được thành lập từ tháng 7-2001 với nguồn kinh phí huy động chủ yếu dựa vào sự ủng hộ, đóng góp hằng năm của cán bộ, chiến sĩ trong toàn lực lượng, đã tổ chức có hiệu quả nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ thiên tai, xây dựng, tôn tạo Khu di tích Nha Công an Trung ương tại Tuyên Quang, An ninh Trung ương Cục miền Nam tại Tây Ninh… hỗ trợ kinh phí xây nhà tình nghĩa tặng đối tượng chính sách; trợ cấp hằng tháng cho các cháu là con liệt sĩ, con thương binh nặng đang học tại các trường phổ thông và các cháu là con cán bộ, chiến sĩ công an bị di chứng do nhiễm chất độc hóa học…
Công an các đơn vị, địa phương đã tổ chức thăm hỏi, động viên gặp mặt, tặng quà đối với thương binh, bệnh binh và thân nhân liệt sĩ, cán bộ hoạt động cách mạng trước ngày 19-8-1945 vào những dịp lễ, Tết, đặc biệt là vào Ngày Thương binh – Liệt sĩ; nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng; đỡ đầu, hỗ trợ các cháu con thương binh, liệt sĩ có hoàn cảnh khó khăn…
Những nghĩa cử cao đẹp nêu trên thể hiện tình cảm, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ công an đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, góp phần bù đắp, chia sẻ phần nào sự hy sinh to lớn của các liệt sĩ, thương binh, sự cống hiến của người có công với cách mạng, với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Đạo lý và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được thấm nhuần sâu sắc trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đòi hỏi lực lượng CAND tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến”. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 07-CT/TW, ngày 14-12-2006 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; Chỉ thị số 01/CT-BCA của Bộ Công an về tiếp tục tăng cường công tác chăm sóc thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong CAND. Đặc biệt, quan tâm chăm sóc các gia đình chính sách có nhiều khó khăn, người có công với cách mạng hiện đang sống cô đơn, không nơi nương tựa, các gia đình chính sách ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng.
Chú trọng tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và quy định của Bộ Công an về công tác chăm sóc người có công với cách mạng. Làm tốt công tác giáo dục truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” trong CAND, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn đối với người có công với cách mạng; nâng cao ý thức tự giác, tích cực tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa của cán bộ, chiến sĩ. Tổ chức tốt các hoạt động đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, nhất là vào các dịp lễ, Tết, Ngày Thương binh-Liệt sĩ. Kịp thời thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ bị thương, thân nhân các gia đình cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Đối với các đồng chí thương binh còn đang tiếp tục công tác, cần quan tâm ưu tiên bố trí sắp xếp công việc thuận lợi, phù hợp điều kiện sức khỏe; đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm đối với số thương binh trong độ tuổi, còn khả năng, điều kiện phát triển.
Đẩy mạnh các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định hài cốt liệt sĩ và làm tốt công tác chăm sóc, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ, bia ghi tên, đền thờ, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ CAND. Tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng nhà tình nghĩa tặng các đối tượng chính sách có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về nhà ở từ nguồn Quỹ phòng, chống thiên tai, đền ơn, đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo trong CAND, trong đó ưu tiên những đối tượng là thương binh, thân nhân liệt sĩ gồm bố mẹ đẻ, người nuôi dưỡng liệt sĩ từ nhỏ, vợ hoặc chồng, con; người có công với cách mạng; cán bộ, chiến sĩ đang công tác và cùng gia đình cư trú tại các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng KT-XH đặc biệt khó khăn; cán bộ, chiến sĩ là người dân tộc thiểu số có thời gian công tác lâu năm trong lực lượng CAND.
Tuyên truyền, giới thiệu, tôn vinh những gương thương binh, gia đình liệt sĩ vượt qua khó khăn, có nhiều thành tích, cống hiến trong lao động, sản xuất và trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự; đồng thời, phát hiện, biểu dương, nhân rộng những gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trong công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa.
Với trách nhiệm, lòng biết ơn và nghĩa tình sâu nặng đối với các anh hùng, liệt sĩ, các đồng chí thương binh, người có công với cách mạng, cán bộ, chiến sĩ CAND càng thấm nhuần sâu sắc truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, luôn tâm nguyện, tiếp tục và thường xuyên làm tốt hơn nữa công tác đền ơn đáp nghĩa đối với những người đã hy sinh xương máu, hy sinh cuộc sống của mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân./.
Thượng tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an

Hơn nửa triệu hộ nghèo đã được hỗ trợ về nhà ở


Sáng 19/7 tại Bắc Ninh, Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.

Ngày 12/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 167/2008/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo tại khu vực nông thôn. Tiếp đó ngày 29/10/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 67/2010/QĐ-TTg để bổ sung thêm đối tượng là các hộ nghèo, có khó khăn về nhà ở, đang cư trú tại các thôn, bản thuộc phường, xã, thị trấn, thị xã, thành phố, sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp.
Theo đó, Nhà nước sẽ hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách mỗi hộ gia đình từ 7,2 – 8,4 triệu đồng, cho vay với lãi suất ưu đãi (3%/năm) từ Ngân hàng Chính sách xã hội 8 triệu đồng và huy động sự giúp đỡ của cộng đồng, dòng họ và đóng góp của bản thân hộ gia đình để xây dựng được một ngôi nhà diện tích khoảng 24m2, đảm bảo tiêu chuẩn 3 cứng, có tuổi thọ tối thiểu 10 năm.
Theo Đề án phê duyệt ban đầu (Báo cáo đầu năm 2009), cả nước có 496.025 hộ nghèo thuộc diện đối tượng hỗ trợ nhà ở. Sau khi rà soát lại và bổ sung đối tượng theo Quyết định 67/2010/QĐ-TTg, tổng số hộ thuộc diện đối tượng thực tế phải hỗ trợ là 539.540 hộ. Ngay trong năm 2009, đầu năm 2010, Chương trình đã ưu tiên bố trí vốn hỗ trợ cho các hộ nghèo trên địa bàn 62 huyện nghèo và hộ là đồng bào Khme tại khu vực Tây Nam Bộ
Đến nay, các địa phương đã hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho 507.143 hộ, đạt tỷ lệ 102,2% so với số hộ phê duyệt ban đầu, đạt 94% so với số hộ thực tế phải hỗ trợ sau khi rà soát, bổ sung. Trong đó có 224.000 hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, với tổng vốn huy động đạt 12.653 tỷ đồng, gồm vốn ngân sách, vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, vốn huy động khác. Tổng số vốn đã giải ngân là 11.945 tỷ đồng (chiến tỷ lệ 94,4% so với số vốn đã huy động), số còn lại sẽ được giải ngân tiếp trong năm 2012.
Về chất lượng nhà ở, hầu hết các căn nhà đều vượt diện tích và chất lượng quy định. Diện tích căn nhà đa số từ 28-32m2. Nhiều căn nhà có diện tích từ 50-60m2. Các căn nhà được xây dựng bằng vật liệu có chất lượng tốt: khung nhà bằng bê tông cốt thép hoặc bằng gỗ, tường nhà xây gạch, mái lợp ngói, fibro xi măng hoặc tôn; nền nhà lát gạch hoặc láng xi măng… Giá thành căn nhà đa số khoảng 25-28 triệu đồng, nhiều căn nhà có giá trị tới 50-60 triệu đồng.
Chương trình 167 có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn
Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản, nhấn mạnh có thể nói, Chương trình 167 là một chương trình hỗ trợ nhà ở lớn nhất, hiệu quả nhất kể từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, chứng tỏ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, những chúng ta đã huy động được nguồn lực to lớn để hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo. Nếu tình bình quân mỗi hộ có 4 người, chương trình đã giúp cho 2 triệu người có nhà ở an toàn, ổn định.
Thông qua thực hiện Chương trình, đã khơi dậy truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, đó là tinh thần tương thân, tương ái, đùm bọc người nghèo, biết ơn người có công; xây dựng tình cảm gắn bó, đoàn kết anh em, dòng họ;…
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển nhà ở xã hội khu vực đô thị, trong đó, có sự tham gia, hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước để doanh nghiệp và người dân tham gia phát triển nhà ở xã hội. Đồng thời tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ nhà ở tại khu vực nông thôn hiện đang được triển khai có hiệu quả, trong đó có Chương trình hỗ trợ hộ nghèo tại khu vực nông thông giai đoạn 2.
Tại Hội nghị, lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương như: Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội; các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa;… đều cho rằng, chính sách hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo tại khu vực nông thôn có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn và đạt được kết quả khá toàn diện.
Chương trình được thiết kế với những cơ chế, chính sách phù hợp, sát với thực tế; các thủ tục đơn giản, dễ thực hiện nhưng vẫn đảm bảo tính công khai, minh bạch, dân chủ. Đồng thời, nhận được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và trở thành phong trào sôi nổi, rộng rãi trên cả nước…
Lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương kiến nghị cần tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, đảm bảo tiến độ thực hiện của các địa phương; Ngân hàng Chính sách xã hội phải chủ động huy động nguồn vốn (50%) để cho hộ nghèo vay làm nhà ở; đẩy nhanh tiến độ thực hiện hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở, ưu tiên bố trí vốn hỗ trợ vùng khó khăn theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; tập trung rà soát, bổ sung các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo theo Quyết định số 167 và 67 của Thủ tướng Chính phủ; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện, đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục tiêu; tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan Trung ương cũng như các địa phương trong thực hiện chính sách.
Chính phủ; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện, đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục tiêu; tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan Trung ương cũng như các địa phương trong thực hiện chính sách;…
Hiện nay, hầu hết các địa phương đã hoàn thành việc thống kê hộ nghèo theo chuẩn mới, có nhiều hộ đang cần được hỗ trợ để cải thiện về nhà ở. Lãnh đạo các địa phương đề nghị Bộ Xây dựng tham mưu với Chính phủ sớm ban hành Đề án hỗ trợ cho hộ nghèo khó khăn về nhà ở theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2012 – 2015 để các địa phương có cơ sở xây dựng kế hoạch thực hiện.
Đồng thời, cho rằng đối với vùng sâu, vùng xa, không thuận lợi về giao thông, việc xây dựng những ngôi nhà đảm bảo 3 cứng giá thành đội lên gấp nhiều lần so với những ngôi nhà tương tự ở những vùng có hệ thống giao thông thuận lợi, vì vậy, Bộ Xây dựng cần có những giải pháp về thiết kế, về nguyên vật liệu làm nhà cho phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng.
Quan tâm hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo
Phát biểu ý kiến chỉ đạo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, nhà ở là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người. Trong những năm qua, việc hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội được triển khai quyết liệt, hiệu quả. Riêng chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167 sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, chúng ta đã hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đề ra ban đầu là hỗ trợ cho khoảng 500.000 hộ gia đình nghèo tại khu vực nông thôn cải thiện nhà ở.
Đây là chương trình được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự hỗ trợ của cộng đồng, nỗ lực của người dân, là chương trình hợp lòng dân.
Bên cạnh chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo khu vực nông thôn theo Quyết định số 167, thời gian qua Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ nhà ở khác như: Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, chương trình hỗ trợ đất ở, nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số. chương trình tôn nền vượt lũ và nhà ở đồng bằng sông Cửu Long… Các chương trình hỗ trợ nhà ở vừa qua đã giúp hàng triệu lượt hộ gia đình nghèo có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xoá đói, giảm nghèo bền vững.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cho hay, trong khoảng 10 năm qua, diện tích nhà ở cả nước đã tăng gấp đôi; bình quân diện tích nhà ở theo đầu người cũng tăng gần gấp đôi (từ 9,68 m2/người năm 1999 đến nay đã đạt 19 m2/người). Chất lượng nhà ở đã được cải thiện. Cả nước hiện chỉ còn 15% số lượng là nhà thiếu kiên cố và nhà đơn sơ, 85% là nhà bán kiên cố và kiên cố.
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo có khó khăn về nhà ở, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, một số địa phương còn chưa hoàn thành kế hoạch của giai đoạn 1 của chương 167, do đó, cấp ủy, chính quyền các địa phương cần tập trung chỉ đạo, có biện pháp, chương trình cụ thể để sớm hoàn thành trong năm 2012.
Đồng ý với chủ trương cần tiếp tục triển khai giai đoạn 2 của chương trình 167, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản tiếp thu các ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành chức năng, các địa phương để tiếp tục hoàn thiện các nội dung liên quan đến mục tiêu, đối tượng hỗ trợ… của chương trình trong giai đoạn 2. Thủ tướng đề nghị tập trung vào khâu sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và khâu tổ chức thực hiện; bảo đảm cơ chế, chính sách, biện pháp phải phù hợp với thực tế, có tính khả thi.
Với mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 là phấn đấu để mọi người dân có nhà ở an toàn, phù hợp với khả năng của mình, chất lượng nhà ở ngày một tốt hơn, Thủ tướng nhấn mạnh, trước mắt, trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, các Bộ, ngành, chức năng cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng cần có sự hỗ trợ của Nhà nước đã nêu trong Chiến lược phát triển nhà ở như: người có công, người nghèo, người thu nhập thấp,…
Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng lưu ý các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục quan tâm xây dựng cơ chế, chính, triển khai hiệu quả các dự án xây dựng nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, nhà cho học sinh, sinh viên, nhà cho công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nguyễn Hoàng (VGP)

Việt Nam là tấm gương thành công trong phát triển


Việt Nam tiêu biểu cho bài học thành công trong phát triển và là tấm gương cho các nước phát triển khác trên toàn thế giới.
Đây là khẳng định của Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Haruhiko Kuroda tại cuộc họp báo ngày 3/5 trong khuôn khổ Hội nghị thường niên của ADB tại Hà Nội.
Theo ông Kuroda, sau một thập kỷ tăng trưởng nhanh, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng trong xóa đói giảm nghèo cho người dân và từ năm 2008 đã gia nhập nhóm các nước có mức thu nhập trung bình. Hiện Việt Nam cũng đang củng cố đà khôi phục sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, ông Kuroda cho rằng Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác ở châu Á đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển. Giá dầu và giá lương thực tăng cao do tác động từ những bất ổn chính trị tại Trung Đông, Bắc Phi; tác động từ thảm họa động đất, sóng thần tại Nhật Bản.
Cùng với đó, lạm phát cao đang tác động mạnh tới hàng trăm triệu người nghèo ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, sự tăng trưởng kinh tế ở châu Á cũng dẫn tới những vấn đề về ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu mà Việt Nam là nước dễ bị tổn thương do thường xuyên phải chịu những trận bão, lũ, hạn hán…
Vì vậy, ADB đang hỗ trợ Chính phủ Việt Nam xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với những tác động xấu có thể xảy ra như xây dựng giao thông đô thị theo hướng giảm khí phát thải thông qua việc thay đổi thói quen sử dụng phương tiện giao thông cá nhân của người dân sang sử dụng hệ thống giao thông công cộng. Bên cạnh đó, ADB còn hỗ trợ Việt Nam phát triển hạ tầng nông thôn, tăng cường khả năng chống chọi với thiên tai của người dân nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Tại cuộc họp báo, ông Kuroda dự báo mức tăng trưởng của các nước đang phát triển ở châu Á sẽ ở mức 7,8% năm 2011 và 7,7% năm 2012, mặc dù thấp hơn mức của năm 2010, nhưng đây vẫn sẽ là kết quả ấn tượng.
Ông Kuroda lưu ý cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã đặt ra nhu cầu rõ ràng cho việc xây dựng một hệ thống tài chính thế giới có kết cấu và nền tảng tốt, có thể chống chịu được những cú sốc, trong đó châu Á đóng một vai trò then chốt trong tiến trình này thông qua việc củng cố các hệ thống tài chính của mình. Việc này sẽ giúp khu vực châu Á giải phóng được những nguồn lực của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển, đồng thời đóng góp hiệu quả cho việc thu hẹp sự mất cân bằng trên toàn cầu. Đối với mỗi quốc gia, trong những thời điểm nhất định, Chính phủ cần có biện pháp riêng để kiểm soát dòng vốn nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc duy trì kiểm soát dòng vốn quá lâu có thể bóp méo sẽ môi trường đầu tư và kinh doanh./.
Sự Anh (TTXVN/Vietnam+)

Việt Nam nổi lên như là một nhà lãnh đạo ở khu vực Đông Nam Á


Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton nhận xét rằng Việt Nam đã nổi lên như là một nhà lãnh đạo ở khu vực Hạ Mê-công và Đông Nam Á, và Hoa Kỳ cùng Việt Nam chia sẻ lợi ích chiến lược quan trọng đó.
Chiều 10-7, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã có cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đang ở thăm chính thức Việt Nam

Mong Hoa Kỳ sẽ là nhà đầu tư số 1 ở Việt Nam
Phát biểu trong cuộc gặp với báo giới sau hội đàm, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho hay ông mong muốn Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam. “Đây là lĩnh vực, quan hệ quan trọng giữa hai bên. Đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam cũng ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp có tiếng của Hoa Kỳ đã vào Việt Nam như GE, Microsoft, Exxon Mobil… Mong rằng thời gian tới, Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam. Thương mại và đầu tư giữa hai nước tiếp tục phát triển khi Việt Nam và Hoa Kỳ, các thành viên khác trong đối tác thương lượng Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hoàn thiện và mở nhiều cơ hội cho việc tăng cường thương mại, kinh tế cũng như đầu tư giữa hai nước”, ông nói. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho biết, cùng đi với Ngoại trưởng Hillary Clinton có hơn 20 doanh nghiệp và ông “hy vọng rằng có nhiều cơ hội kinh doanh đầu tư được mở ra sau chuyến thăm này”.
Nhấn mạnh kinh tế, thương mại, đầu tư sẽ tiếp tục là “trọng tâm và động lực cho quan hệ song phương”, Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng cho hay ông kỳ vọng  TPP sắp đi đến ký kết, sẽ mở ra những cơ hội hợp tác cho hai bên. Từ vài chục triệu USD thương mại song phương năm 1995, kim ngạch đã lên đến 22 tỉ USD vào năm 2011.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary cũng nói bà cảm thấy rất tuyệt vời khi trở lại Việt Nam lần thứ 3 để “thấy những thay đổi và tiến bộ” trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Hai nước đã làm việc trên các lĩnh vực hợp tác từ an ninh hàng hải, hợp tác cứu trợ thảm họa thiên tai, không phổ biến vũ khí, y tế công cộng cho đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, giải quyết các vấn đề hậu chiến tranh như rà phá bom mìn, tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh, da cam/dioxin….
“Việt Nam đã nổi lên như là một nhà lãnh đạo ở khu vực Hạ Mê-công và Đông Nam Á, và Mỹ cùng Việt Nam cũng chia sẻ lợi ích chiến lược quan trọng đó”, Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói.
Hoa Kỳ cam kết cùng Việt Nam giải quyết hậu quả chiến tranh
Một trong những lĩnh vực hợp tác được hai bên nhấn mạnh là giải quyết các vấn đề hậu chiến tranh, trong đó có rà phá bom mìn, giải quyết hậu quả chất độc da cam/dioxin, tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh (MIA). Bộ trưởng Phạm Bình Minh nhấn mạnh: “Việt Nam mong muốn Chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ các hoạt động rà phá bom mìn, tẩy độc đi-ô-xin và hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin ở Việt Nam”. Ngoại trưởng Mỹ khẳng định cam kết cùng Việt Nam giải quyết các vấn đề này theo kế hoạch dài hạn, không chỉ theo từng năm một, trong đó Việt Nam đã đề cập việc cho phép khối tư nhân tham gia vào nỗ lực giải quyết các vấn đề này.
“Chúng tôi đã làm việc tích cực, đảm bảo rằng Hoa Kỳ đang giải quyết những di sản của chiến tranh để lại. Chúng tôi đã có những cam kết gia tăng tài chính… Về lĩnh vực tìm kiếm tìm kiếm người Mỹ mất tích, Hoa Kỳ đánh giá cao sự hợp tác của Việt Nam trong hai thập kỷ qua… Đã có gần 700 hài cốt được trao trả song hiện còn 1.300 người vẫn mất tích. Trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta, Việt Nam đã thông báo cho mở rộng thêm khu vực tìm kiếm. Hai bên sẽ còn nhiều việc phải làm”, Ngoại trưởng Hoa Kỳ  phát biểu.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh cho biết ông và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã trao đổi các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, nhất trí thúc đẩy hợp tác trên các diễn đàn đa phương, khu vực, vì lợi ích chung, lâu dài của hai nước, vì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. “Chúng tôi cũng tiếp tục trao đổi việc duy trì hòa bình, ổn định hợp tác an toàn, an ninh hàng hải ở Biển Đông. Hai bên nhất trí rằng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt Công ước Luật Biển 1982, đồng thời tuân thủ Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông được ký giữa ASEAN và Trung Quốc”, Bộ trưởng Phạm Bình Minh nói.
Ngoại  trưởng Hillary Clinton đánh giá cao đóng góp của Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông và những nỗ lực kiềm chế căng thẳng và tìm kiếm giải pháp ngoại giao. “Hoa Kỳ trông đợi ASEAN sẽ đạt được tiến bộ với Trung Quốc trong việc thống nhất Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm bảo đảm rằng dù có tranh chấp nảy sinh, các bên vẫn giải quyết bằng phương pháp hòa bình thông qua sự đồng thuận theo nguyên tắc luật pháp quốc tế”, bà Hillary Clinton nói.
Chiều 10-7, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đến chào xã giao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, gặp cộng đồng doanh nghiệp hai nước và chứng kiến lễ ký một số văn kiện về kinh tế, thương mại. Bà Hillary Clinton cũng tham dự lễ kỷ niệm 15 năm chương trình học bổng Fulbright ở Việt Nam.
Thu Trang

Việt Nam coi trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo


Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và đa dân tộc. Công dân Việt Nam hầu hết có tín ngưỡng. Tín đồ tôn giáo chiếm khoảng 1/4 dân số cả nước, thuộc các giai tầng, dân tộc khác nhau, cư trú ở khắp nơi trên lãnh thổ. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp. Không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị cấm đoán. Không một công dân nào bị ép buộc theo hoặc không theo một tín ngưỡng nào. Tất cả đều trên cơ sở tự nguyện. Đó là điểm cốt lõi trong việc thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thực sự được coi trọng, bảo đảm ngày một tốt hơn, toàn diện hơn. Ảnh: Internet.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về thành lập Hội Phản đế đồng minh, ngày 18-11-1930, Đảng ta đã khẳng định: “Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại trong và ngoài nước, tự do tín ngưỡng, tự do khai hóa”. Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) cũng xác định: “Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng”. Đến tháng 6-1955, Nhà nước ta đã có Sắc lệnh số 223/SL, quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Sau đổi mới, năm 1990, Đảng ta ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức về tôn giáo, tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng. Đặc biệt, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) lần đầu tiên quan điểm mới ấy đã chính thức được ghi trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương, giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng”.
Từ đó đến nay, trong các kỳ Đại hội VIII, IX, X, XI những quan điểm về tôn giáo dần được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Vấn đề tôn giáo cũng được đề cập trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011).
Những quan điểm được các đại hội Đảng nêu ra và được thể hiện trong các văn bản pháp luật cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng quyền tự do tôn giáo, chủ trương lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu vì "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng để gắn bó giữa đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các tín đồ tôn giáo là một phần không thể thiếu trong cộng đồng người Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi của một công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng, trong những năm qua nhiều tôn giáo đã ra đời và được pháp luật Nhà nước Việt Nam công nhận. Tính đến nay, cả nước có 12 tôn giáo với trên 22 triệu tín đồ, 80 nghìn chức sắc, nhà tu hành, 32 tổ chức và trên 25 nghìn nơi thờ tự. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi nổi và đang có chiều hướng gia tăng. Lễ Nôen, lễ Phật đản cũng như những lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng ấy được chính quyền các địa phương tạo điều kiện đáp ứng. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn ra khắp nơi. Nhiều chính quyền địa phương còn cấp đất cho giáo hội làm nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo.
Nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng được chính quyền các địa phương tạo điều kiện nên ngày càng sôi nổi, mạnh mẽ.

Có thể nói, chưa bao giờ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lại sôi nổi, mạnh mẽ và được quan tâm như hiện nay. Và, chưa thời kỳ nào mà Đảng, Nhà nước ta lại xây dựng được hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo đầy đủ và hoàn thiện như ngày nay. Điều đó chứng tỏ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm toàn diện trên thực tế. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; chưa bao giờ có chủ trương cản trở hoạt động tôn giáo bình thường của nhân dân, lại càng không hề có sự kỳ thị, chèn ép, phân biệt đối xử, cấm đoán quyền tự do tôn giáo của công dân. Tất cả các tín đồ tôn giáo, chức sắc, chức việc, các giáo hội, giáo phận… ở Việt Nam đều thừa nhận quyền tự do này luôn được Nhà nước tôn trọng. Đây là một thực tế không thể xuyên tạc!
Tuy nhiên, bên cạnh việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của công dân, chủ trương của Đảng, luật pháp của Nhà nước Việt Nam cũng đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân; đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Chính vì vậy, những kiểu "bàn môn, tà đạo”, đội lốt tôn giáo để chống phá Nhà nước, xúi giục nhân dân gây chia rẽ, mất đoàn kết dân tộc, lợi dụng lòng tin của nhân dân để làm băng hoại đạo đức xã hội, vì mục đích cá nhân đen tối… phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Những năm gần đây, hàng loạt tà đạo đã bị vạch trần như Đạo Hoa vàng, Long Hoa Di Lặc (ở Bắc Bộ); đạo Vàng chứ (ở Tây Bắc); đạo Y-Gyin, Hà Mòn, Thanh Hải vô thượng sư, Canh tân đặc sủng, Tin lành Đề ga (ở Tây Nguyên); Hội đồng công án Bia Sơn (ở Phú Yên)… Việc xử lý đó là việc làm hoàn toàn chính đáng, hợp pháp nhằm bảo vệ an ninh trật tự, kỷ cương phép nước mà bất cứ quốc gia nào cũng đều thực hiện để giữ vững ổn định xã hội, được nhân dân và hàng triệu tín đồ tôn giáo chân chính hoan nghênh.
Do đó, một lần nữa chúng ta khẳng định, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thực sự được coi trọng, bảo đảm ngày một tốt hơn, toàn diện hơn. Các tôn giáo ở Việt Nam dù nội sinh hay ngoại nhập, muốn phát triển được đều phải hòa đồng với văn hóa dân tộc và phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Đây là yêu cầu khách quan, bởi lẽ không một tôn giáo nào được phép đứng ngoài quốc gia, dân tộc và đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Lợi ích quốc gia là cao nhất, trong đó có lợi ích của các tôn giáo./.
Theo: daidoanket.vn 

Friday, May 3, 2013

IADL kêu gọi bảo vệ các nạn nhân da cam Việt Nam

Chăm sóc nạn nhân chất độc da cam. Ảnh minh họa (Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN)


Theo phóng viên TTXVN tại Thụy Sĩ, ngày 28/6, Hội luật gia dân chủ thế giới (IADL) đã đưa vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam ra khóa họp lần thứ 20 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ở thành phố Geneva, Thụy Sĩ.
IADL cũng ra lời kêu gọi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
Đây là sáng kiến của IADL trong hành trình đòi công lý cho các nạn nhân Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam cách đây 51 năm.
Đoàn đại biểu Việt Nam do Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh - Chủ tịch Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA), đại diện cho hơn 3 triệu nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, làm trưởng đoàn đã tham dự sự kiện này cùng hàng trăm đại biểu đến từ các nước thành viên Liên hợp quốc.
Phát biểu tại cuộc họp, Chủ tịch IADL Jeanne Mirer cho biết trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, quân đội Mỹ đã rải hơn 80 triệu lít chất độc da cam/dioxin trong suốt 10 năm từ 1961-1971. Đây là cuộc chiến tranh hóa học dài nhất trong lịch sử nhân loại, khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng, hơn 3 triệu nạn nhân đang phải sống trong đau khổ vì bệnh tật vô phương cứu chữa, biết bao trẻ em thế hệ thứ hai, thứ ba sinh ra đã mang trên mình đầy dị tật.
Bà Mirer nhấn mạnh trong khi công nhận và đền bù thiệt hại cho các nạn nhân chất độc da cam/dioxin là cựu chiến binh Mỹ, thì Chính phủ Mỹ lại lờ đi trách nhiệm của họ trước yêu cầu của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
Bà Mirer kêu gọi Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc cần hành động ngay vì những nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam. Bà cho rằng trong suốt thập kỷ qua, tổ chức nhân quyền của Liên hợp quốc bàn nhiều về quyền con người, nhưng hầu như không nhắc đến quyền sống nói chung và đặc biệt là quyền sống của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam nói riêng. Ngay tại phiên họp, các nhà báo đã xin gặp đoàn đại biểu Việt Nam để phỏng vấn và tìm hiểu về các nạn nhân và môi trường hiện tại ở Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN về những hoạt động tiếp theo của IADL, bà Jeanne Mirer cho biết sau phán quyết của Tòa án lương tâm nhân dân quốc tế được tổ chức ở Paris (Pháp) hồi tháng 5/2009, IADL sẽ tiếp tục yêu cầu Chính phủ Mỹ và các công ty hóa chất nước này phải giải quyết những khó khăn mà các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đang phải gánh chịu và cải tạo môi trường tại các vùng nhiễm độc ở Việt Nam.

Trước mắt, IADL sẽ tập trung hoạt động vào Ngày vì nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (10/8 - ngày đầu tiên quân đội Mỹ rải chất độc da cam/dioxin xuống chiến trường miền Nam Việt Nam) nhằm giúp nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về cuộc chiến này, qua đó ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam/điôxin Việt Nam và đòi Mỹ phải đền bù thiệt hại cho họ.
Trước đó, ngày 26/6, IADL đã cùng với VAVA tổ chức sự kiện mang tên "Di chứng da cam Việt Nam" bên lề khóa họp Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, với sự có mặt của nhiều thành viên IADL, các nhà khoa học và nhà báo quốc tế.
Theo Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh, thông điệp chính tại sự kiện này là nhằm kêu gọi các tổ chức quốc tế, các tổ chức nhân quyền Liên hợp quốc quan tâm đến quyền sống của các nạn nhân chất độc da cam/điôxin Việt Nam, kêu gọi Chính phủ Mỹ và các công ty hóa chất Mỹ thấy rõ trách nhiệm của mình đối với nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
Ông Rinh cũng khẩn thiết kêu gọi thế giới hãy nói không với chất độc hóa học. Những người tham dự phiên họp đã đặc biệt xúc động khi được xem một số hình ảnh và con số thống kê về những người đang từng ngày phải chung sống với hậu quả của chất độc da cam/ điôxin, dù chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm qua.
Tối cùng ngày, tại thành phố Geneva, cuộc gặp gỡ giữa IADL và VAVA với hơn 30 đại biểu đại diện cho các cá nhân và tổ chức quốc tế và địa phương, nhà nghiên cứu và sinh viên đã diễn ra. Những người tham dự đã đặt nhiều câu hỏi thể hiện sự quan tâm tới tình hình sức khỏe hiện tại của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam và môi trường nơi họ đang sống. Nhiều người đã chân thành bày tỏ mong muốn được giúp đỡ và ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam./.
(TTXVN)

Việt Nam đóng góp tích cực vào thành công của Rio+20


Sau 3 ngày làm việc khẩn trương, hiệu quả, Đoàn Việt Nam đã hoàn thành chương trình công tác tại Hội nghị cấp cao Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững Rio+20 với nhiều đóng góp quan trọng, nhất là những quan điểm mới gửi tới tổ chức lớn nhất thế giới – Liên Hợp Quốc. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã chia sẻ thông tin xung quanh Hội nghị đặc biệt này.


Phóng viên: Xin Bộ trưởng cho biết mục đích và trọng tâm của Hội nghị Rio+20 lần này là gì?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Rio+20 là Hội nghị có quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong tiến trình phát triển bền vững của thế giới Mục tiêu của Hội nghị Rio+20 là nhìn lại quá trình 20 năm thực hiện phát triển bền vững; đánh giá những hạn chế, khó khăn, xác định các thách thức mới và giải pháp để giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. Hội nghị cũng là cơ hội để các quốc gia trên thế giới khẳng định lại những cam kết, đồng thời đưa ra những cam kết mới, những nỗ lực toàn cầu mới cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu, củng cố và tăng cường các cam kết chính trị, các mối quan hệ hợp tác và đối tác cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Hội nghị đã thông qua Văn kiện quan trọng, phản ánh những định nghĩa, khái niệm, biện pháp nhằm giải quyết một số vấn đề chính liên quan đến 3 trụ cột của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt trong đó xác định định hướng phát triển kinh tế xanh trong bối cảnh phát triển bền vững và xóa nghèo; xây dựng khung thể chế tạo điều kiện thúc đẩy thực hiện phát triển bền vững.
Phóng viên: Quan điểm của Chính phủ Việt Nam mang tới Rio+20 là gì? Đoàn Việt Nam đã nêu những vấn đề gì tại Hội nghị, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Chính phủ Việt Nam coi phát triển bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay và trong tương lai. Việt Nam đã tích cực triển khai thực hiện Chương trình Nghị sự 21 quốc gia và cũng vừa ban hành chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2011-2020. Đối với các vấn đề trọng tâm của Hội nghị như kinh tế xanh, Việt Nam cho rằng mỗi quốc gia cần phát huy quyền tự chủ trong thiết kế và quyết định các ưu tiên, các chính sách phát triển kinh tế xanh phù hợp với điều kiện của mình, cần xây dựng và thực hiện các thể chế, chính sách toàn cầu và khu vực, các cơ chế tăng cường hợp tác đa phương, song phương để phát triển kinh tế xanh, đồng thời, tạo dựng một diễn đàn quốc tế để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong thực hiện kinh tế xanh, không sử dụng các tiêu chí của kinh tế xanh như rào cản thương mại hay điều kiện của hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Về việc cải tổ và nâng cấp các cơ quan trong hệ thống LHQ, Việt Nam cho rằng cần xây dựng một lộ trình cho việc cải tổ đối với Ủy ban Kinh tế xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSOC); Ủy ban Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (CSD) và Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) theo các giai đoạn với các tiêu chí phù hợp. Việt Nam mong muốn Liên Hợp Quốc tăng cường hơn nữa vai trò và nhiệm vụ ở tất cả các cấp trong việc làm cầu nối, huy động và điều phối hiệu quả các nguồn lực cần thiết để thực hiện các các mục tiêu phát triển bền vững, củng cố và phát triển hệ thống các cơ quan của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững ở khu vực.
Phóng viên: Trong 3 ngày làm việc tại Rio+20, Đoàn Việt Nam đã có những hoạt động nổi bật gì, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, trưởng đoàn Việt Nam đã tham dự và phát biểu tại Phiên toàn thể cấp cao của Hội nghị trong ngày 21/6/2012. Cùng ngày, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham dự và có bài phát biểu tại Phiên bàn tròn cấp cao bàn về phương hướng thực hiện các kết quả của Hội nghị Rio+20. Bên cạnh đó, Đoàn Việt Nam đã tham dự và có phát biểu tại một số các diễn đàn, sự kiện quan trọng bên lề Hội nghị: Ngay sau khi đến Hội nghị Phó Thủ tướng đã đến dự và có bài phát biểu tại sự kiện “Đánh giá năng lượng toàn cầu”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham dự và có bài phát biểu tại sự kiện “Diễn đàn thượng đỉnh về vốn tự nhiên” do WB và Vương quốc Anh tổ chức; tham dự và có bài phát biểu tại sự kiện “Những thay đổi phát triển bền vững toàn cầu và tăng trưởng xanh cho tất cả chúng ta” do WB và Đức tổ chức. Được sự ủy quyền của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, trưởng đoàn Việt Nam, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư đã tham dự lễ ký kết thành lập Viện tăng trưởng xanh toàn cầu.
Đặc biệt, trong thời gian diễn ra Hội nghị, Đoàn Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với Đoàn Bangladesh tổ chức sự kiện “Phát triển xanh – triển vọng của Việt Nam và Bangladesh”; Phối hợp với Hà Lan, Benin, Barbados tổ chức Diễn đàn hợp tác Chính phủ và doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững. Bên cạnh đó, Đoàn Việt Nam đã tham dự và có bài phát biểu tại một số sự kiện của UNDP, WWF, UNEP, OFID.
Cũng trong thời gian diễn ra Hội nghị, Đoàn Việt Nam đã có các cuộc tiếp xúc song phương với đối tác Đức, Hà Lan, Thụy Sỹ, Phần Lan, Ghine, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Jica), Cộng hòa Séc; Ngân hàng Thế giới, Cơ quan Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Hội đồng doanh nghiệp thế giới vì sự phát triển bền vững.
Phóng viên: Việt Nam đã có những đề xuất, kiến nghị gì tại Hội nghị Rio+20, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Một số đề xuất, kiến nghị của Việt Nam đã được đề cập trong bài phát biểu của Trưởng đoàn, đó là LHQ cần đưa ra các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2020 và 2030 và thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá các mục tiêu phát triển bền vững. Các mục tiêu phát triển bền vững cần có tính phổ cập và áp dụng được cho tất cả các quốc gia, cho phép cách tiếp cận phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia, thể hiện sự gương mẫu của các nước có trình độ phát triển cao. Về kinh tế xanh, Việt Nam khuyến nghị thành lập các trung tâm về kinh tế xanh tại các vùng trên thế giới như Nam Á, Đông Nam Á, Bắc và Nam Mỹ. Các Trung tâm này sẽ giám sát các chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế xanh của các nước trong khu vực, cung cấp các dịch vụ tư vấn về xây dựng chính sách và các thực tiễn điển hình, giúp LHQ xây dựng và xuất bản các báo cáo hàng năm của thế giới về kinh tế xanh. Việt Nam sẵn sàng làm việc với các nước ASEAN và LHQ để thành lập Trung tâm Kinh tế xanh của tại Việt Nam và chia sẻ 50% kinh phí vận hành trung tâm này. Việt Nam cũng kêu gọi LHQ thành lập mạng lưới LHQ và Chương trình LHQ để giải quyết hiệu quả vấn đề nước biển dâng, kết hợp kiến thức, công nghệ và nguồn lực của các nước phát triển và đang phát triển để khắc phục vấn đề toàn cầu này. Việt Nam mong muốn là thành viên tích cực của những mạng lưới LHQ như vậy.
Tại phiên họp bàn tròn cấp cao bàn về phương hướng thực hiện những kết quả của Hội nghị RI0+20 Việt Nam đề xuất các đối tác phát triển tăng cường hơn nữa các chính sách nhằm mở rộng và đưa các quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, có hiệu quả; tăng cường hơn nữa nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ để giúp Việt Nam thực hiện chiến lược phát triển bền vững quốc gia, trong đó có xây dựng và thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh. Việt Nam cũng kêu gọi Liên hợp quốc tăng cường hơn nữa vai trò và nhiệm vụ ở tất cả các cấp trong việc làm cầu nối, huy động và điều phối hiệu quả các nguồn lực cần thiết để thực hiện các các mục tiêu phát triển bền vững, thực hiện những cam kết mà Hội nghị lần này đạt được; đồng thời khuyến nghị LHQ tiếp tục hỗ trợ cho mô hình thí điểm “Một LHQ” ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!