Monday, May 6, 2013

Nhìn lại kinh tế Việt Nam 2012


(HQ Online)- Năm 2012 là một năm khó khăn của nền kinh tế Việt Nam, từ những khó khăn kinh tế vĩ mô đến khó khăn của DN và các hộ gia đình.
Ảnh minh hoạ.
 
Tuy nhiên, năm 2012 cũng đã xuất hiện những chuyển động tích cực hỗ trợ và thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuẩn bị thế và lực cho giai đoạn phát triển tiếp theo, cao hơn, bền vững và hiệu quả hơn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp
Tốc độ tăng GDP năm 2012 chỉ đạt hơn 5,03% (thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây), chỉ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 4,77% năm 1999 nhưng lại thấp hơn cả tốc độ tăng 5,32% năm 2009. Rõ ràng những bất ổn kinh tế vĩ mô tích tụ trong mấy năm gần đây đã buộc Việt Nam phải chuyển trọng tâm chính sách từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát thông qua những biện pháp nêu trong Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và nêu lại trong Nghị quyết số 01/2012/NQ-CP.
Tiếc rằng chủ trương chấp nhận giảm tốc độ tăng GDP để củng cố điều kiện kinh tế vĩ mô và triển khai cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế lại chưa được khẳng định mạnh mẽ nên mặc dù so với cùng kỳ GDP quí I chỉ tăng có 4,64%, quí II nhích lên 4,8% và quí III tăng 5,05% - đều là những quí có tốc độ tăng trưởng thấp hơn hẳn trong vòng 5 năm qua, song Việt Nam vẫn cố duy trì mục tiêu tăng trưởng ban đầu 6-6,5% và chỉ chấp nhận không thể đạt được mục tiêu này vào mấy tháng cuối năm.
Biểu hiện rõ nhất của cố gắng tăng trưởng là tiếp tục đẩy mạnh đầu tư mặc dù hiệu quả đầu tư chưa được cải thiện và chương trình cơ cấu lại đầu tư, trong đó tập trung cơ cấu lại đầu tư công diễn ra chậm chạp do gặp nhiều trở ngại cả từ tư duy, quy hoạch, cơ chế quản lý cũng như kiểm tra giám sát. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội quí I-2012 đột ngột tăng lên 36,2% GDP từ mức 34,6% GDP năm 2011 trước khi giảm chút ít xuống 34,5%GDP sau 6 tháng, rồi lại tăng lên 35,8% GDP sau 9 tháng, tuy thấp hơn hẳn mức đầu tư giai đoạn 2006-2010 nhưng vẫn tương đương giai đoạn 2001-2005.
Do tốc độ tăng GDP năm 2012 thấp hơn hẳn so với giai đoạn 2001-2005 nên hiệu quả đầu tư chung đột ngột tăng vọt và ICOR chỉ hạ xuống dưới 6 khi tổng mức đầu tư toàn xã hội cả năm 2012 còn khoảng 33,5%. Đáng chú ý là tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước năm 2012 vẫn duy trì ở mức trên dưới 37% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn đầu tư từ NSNN vẫn chiếm khoảng 54% chứng tỏ chương trình cơ cấu lại đầu tư công chưa có chuyển biến rõ rệt.
Tổng cầu và lạm phát tăng thấp
Năm 2012 tổng cầu tiêu dùng tuy có cải thiện hơn so với năm 2011 nhưng vẫn tăng thấp hơn so với những năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng 16% so với năm 2011 (loại trừ yếu tố giá tăng 6,2%) chỉ bằng một nửa so với giai đoạn 2007-2010. Hệ quả là mặc dù sản xuất công nghiệp chững lại với chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 5,9%, song do sức mua tăng chậm với chỉ số tiêu thụ hàng công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng khoảng 3,6% nên chỉ số hàng tồn kho của nhóm hàng này tăng tới hơn 20,1% so với cùng kỳ năm trước.

Các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2013
Kinh tế:
-Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 5,5% so với năm 2012. Trong đó: Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 2,3%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng khoảng 5,7%; khu vực dịch vụ tăng khoảng 6,5%.
- Kim ngạch XK tăng khoảng 10%. Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch XK ở mức khoảng 8%.
-Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP không quá 4,8%.
- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) khoảng 8%.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP.
Xã hội:
- Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động.
- Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị dưới 4%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%; riêng các huyện nghèo giảm 4%.
(Nguồn: Nghị quyết số 31/2012/QH13 về kế hoạch kinh tế-xã hội năm 2013)
Bên cạnh đó, mặc dù tổng kim ngạch XK năm 2012 tăng khoảng 18,3% đạt 114,6 tỷ USD, song lại chủ yếu do thành tích XK của khu vực có vốn FDI nên phần lớn DN Việt Nam gặp khó khăn về đầu ra cho các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ suốt cả năm 2012. Do những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm đi đôi với chi phí đầu vào cao nên năm 2012 đã có thêm khoảng 4 vạn DN giải thể, ngừng hoạt động, đưa tổng số DN giải thể ngừng hoạt động trong 2 năm 2011 và 2012 lên đến 10 vạn - chiếm một nửa số DN loại này trong suốt 2 thập kỷ qua. Đến lượt mình, DN gặp khó khăn lại hạn chế tạo công ăn việc làm, thậm chí làm gia tăng thất nghiệp và giảm thu nhập của người lao động, tạo ra vòng xoáy cắt giảm tiêu dùng. 
Nguyên nhân sâu xa khiến cho không ít DN Việt Nam lâm vào hoàn cảnh khó khăn có cả nguyên nhân khách quan từ thị trường quốc tế và chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt cũng như nguyên nhân chủ quan từ sự phát triển quá nóng và thiếu chiến lược của DN. Như vậy, cơ cấu lại DN không chỉ cần tập trung vào hơn 1.300 DNNN với vài chục tập đoàn và tổng công ty Nhà nước mặc dù khu vực kinh tế Nhà nước đang chiếm 1/3 GDP cả nước và 1/5 giá trị sản xuất công nghiệp mà cần cơ cấu lại toàn bộ các DN gắn với cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu lại chính bản thân từng DN, không phân biệt thành phần kinh tế.
Chịu sự chi phối của tổng cầu tăng thấp, cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng bên cạnh niềm tin kinh doanh và niềm tin tiêu dùng không cao nên diễn biến lạm phát năm 2012 ổn định vượt ngoài sự mong đợi với CPI cả năm khoảng 9,21%. Ngoại trừ 2 tháng đầu năm tăng trên 1% và tháng 9 tăng tới 2,2% do điều chỉnh mạnh giá dịch vụ y tế, suốt từ tháng 3 đến cuối năm CPI đều tăng dưới 1% mỗi tháng bất chấp giá điện tăng bình quân 5% và giá xăng dầu tăng trên 10%. Nếu loại trừ yếu tố chủ động tăng giá dịch vụ y tế, giá điện và giá xăng dầu thì lạm phát năm 2012 chỉ khoảng 5-6%, đã góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ năm 2012 mà cả năm 2013 tới đây.
Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn
Bên cạnh việc kiềm chế lạm phát, đưa CPI từ gần 20% năm 2011 xuống 9,21% năm 2012 như nêu trên thì hàng loạt chỉ số kinh tế vĩ mô năm 2012 ổn định theo hướng tích cực hơn hẳn so với mấy năm trước.
Trong bối cảnh sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thị trường tiêu thụ hạn chế, song một mặt Việt Nam vẫn nỗ lực thu NSNN đạt dự toán, đặc biệt khoản thu NSNN từ dầu thô vượt xa so với dự toán đã hỗ trợ kịp thời cho nguồn thu từ nội địa và từ hoạt động XNK, mặt khác, tiết kiệm chi NSNN, cả chi đầu tư và chi thường xuyên để đảm bảo mức thâm hụt NSNN không quá 4,8% GDP - góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, cần bổ sung vào chương trình cơ cấu lại nền kinh tế vấn đề cơ cấu lại NSNN, từ cơ cấu thu, chi đến cơ cấu bù đắp thâm hụt NSNN và cơ cấu nợ công để đảm bảo tính đồng bộ và khả thi.


Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam:
Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng về ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2012. Đây là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam có được tình hình kinh tế vĩ mô tương đối ổn định. Tình hình được cải thiện là nhờ các chính sách thắt chặt trong nước và môi trường quốc tế khá thuận lợi. Chính phủ cũng không ngừng trấn an bằng thông điệp ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Hành động và những tuyên bố của Chính phủ đã giúp làm an lòng những nhà đầu tư đang "bồn chồn" và khôi phục lòng tin đối với tiền đồng, được minh chứng bằng kết quả tiền gửi tăng mạnh và tỉ trọng tiền gửi bằng tiền đồng gia tăng trong hệ thống ngân hàng. Sự quyết tâm của các cơ quan chức năng trong việc duy trì các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp sang năm thứ hai liên tiếp là một sự thay đổi đáng hoan nghênh và chắc chắn sẽ giúp Việt Nam dần dần gây dựng lại được niềm tin như một quốc gia điều hành kinh tế vĩ mô có kinh nghiệm.
Tuy nhiên, xu hướng tăng trưởng tiếp tục giảm xuống trong những năm qua (năm nay là tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1999) cho thấy nền kinh tế đang mất đi một số động lực mà những cản trở về cơ cấu đã và đang làm ảnh hưởng đến tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.


Bà Nguyễn Thị Tuệ Anh, Viện Nghiên cứu quản lí Kinh tế Trung ương:
XK hiện nay vẫn là động lực chính của tăng trưởng Việt Nam, nếu chỉ tính riêng XK thì luôn đóng góp cao vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Nhưng XK ròng, tức đã trừ đi kim ngạch NK thì Việt Nam lại nhập siêu nên đóng góp của XK ròng bị âm làm giảm tăng trưởng. Tuy nhiên vừa qua XK luôn đạt mức tăng trưởng khá cao, tăng 18% so với năm 2011. Nhưng cơ cấu hàng XK vẫn không thay đổi nhiều. Cơ cấu hàng XK chủ yếu là hàng nông sản, cũng như hàng chế biến thấp, các mặt hàng chế tác như linh kiện điện tử, máy tính chủ yếu gia công lắp ráp là chính nên giá trị gia tăng thấp. Vì thế giá trị XK tăng trưởng tốt nhưng giá trị gia tăng chưa chắc cao vì giá trị hàng NK để phục vụ cho nhu cầu sản xuất của các DN cũng là cao.
Trong năm tới, môi trường kinh doanh của các DN nói chung và DN XK nói riêng vẫn còn nhiều thách thức. Đối với DN, có quá nhiều yếu tố tác động vào môi trường kinh doanh. Chẳng hạn các yếu tố đầu vào như vốn vẫn còn khá khó khăn. Lãi suất cao như vậy sẽ khiến DN khó tiếp cận các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh. Trong khi đó đầu ra của DN lại hạn chế khi xu hướng tiêu dùng của người dân chưa có sự khởi sắc, dẫn đến hàng tồn kho tăng. Đó là những khó khăn trong ngắn hạn của DN, còn về dài hạn còn rất nhiều điều cần phải bàn về môi trường kinh doanh của DN.
Chuyên gia kinh tế VŨ ĐÌNH ÁNH

Vượt qua khó khăn, thách thức, vững bước tiến lên


QĐND - Ngày cuối cùng của năm 2012, rất nhiều người trên thế giới đã thở phào nhẹ nhõm bởi một năm đầy sóng gió với những tác động sâu rộng của cuộc suy giảm kinh tế toàn cầu, xung đột vũ trang khu vực đã trôi qua. Với Việt Nam, năm 2012 là một trong những năm khó khăn nhất về kinh tế tính từ đầu thế kỷ này. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.
Trước bối cảnh bất lợi đó, Đảng, Quốc hội và Chính phủ thẳng thắn nhìn nhận và chỉ ra những yếu kém trong nội tại nền kinh tế, đồng thời phân tích sâu những cơ hội và thách thức, trên cơ sở đó ban hành nhiều văn bản quan trọng cùng những định hướng đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kinh tế-xã hội. Trong đó ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm an sinh xã hội; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Nhờ nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực: Kinh tế vĩ mô có bước cải thiện, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 6,81% (năm 2011 là 18,13%); kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 18%; dự trữ ngoại hối cao nhất từ trước đến nay, tỷ giá ổn định, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam được nâng lên. Trong điều kiện kinh tế toàn cầu suy giảm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) vẫn tăng hơn 5%. 
Các vấn đề biên giới, lãnh thổ trên đất liền, chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển và hải đảo được giải quyết một cách thỏa đáng, phù hợp luật pháp quốc tế. Tiến trình xây dựng quân đội nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đã đạt được những kết quả quan trọng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế. Lực lượng quân đội nhân dân đã sát cánh cùng lực lượng công an nhân dân làm nòng cốt trong việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Trong khó khăn chung của nền kinh tế, chúng ta càng đặc biệt coi trọng an sinh xã hội và quan tâm chăm lo người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn. 
Nỗ lực vượt khó trong năm 2012 của Việt Nam thể hiện bản lĩnh và sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là thắng lợi của ý Đảng, lòng dân, sự chung sức của toàn quân, tạo đà cho Việt Nam vững bước vào năm 2013, năm được dự báo sẽ có nhiều thời cơ và thách thức mới. Trong đó có nguy cơ về những cú sốc từ bên ngoài vẫn đang tiềm ẩn, có thể tác động xấu đến kinh tế nước ta. Ở trong nước, những yếu kém về cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng chậm được giải quyết. Quản lý Nhà nước còn nhiều yếu kém. Ý thức trách nhiệm và năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ công chức còn nhiều bất cập. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng... Trong khi đó, chúng ta vẫn phải thường xuyên đối phó với những âm mưu thủ đoạn nhằm gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Để vượt qua những khó khăn thách thức nói trên, đòi hỏi phải có sự nỗ lực chủ động vượt khó của các cấp, các ngành, các địa phương, các đơn vị lực lượng vũ trang và doanh nghiệp. Cần khẩn trương thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó tập trung vào tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là các tổng công ty, tập đoàn kinh tế Nhà nước; tái cơ cấu hệ thống tài chính mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại; đổi mới mô hình tăng trưởng để chuyển dần từ phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu dựa vào ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Điều hành chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường và theo lạm phát mục tiêu. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường
Trong khi tập trung sức ứng phó các thách thức, khó khăn về kinh tế-xã hội, cũng cần đặc biệt quan tâm bảo đảm vững chắc quốc phòng-an ninh và tăng cường công tác đối ngoại, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho ổn định và phát triển đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng - đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất đã góp phần xứng đáng đưa đất nước vượt qua khó khăn thách thức trong năm 2012, bước vào năm mới 2013 càng phải thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình với Tổ quốc, với nhân dân. Trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu cần rèn luyện bộ đội sử dụng thành thạo vũ khí trang bị mới và hiện đại. Toàn quân tiếp tục thực hiện tốt “3 khâu đột phá” về điều chỉnh tổ chức biên chế; về nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật và giáo dục-đào tạo; về cải cách hành chính. 
Bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội hãy là những công dân tích cực nhất, vận động toàn xã hội đồng thuận thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại năm 2013 ngay từ quý đầu, tháng đầu. Hăng hái tham gia lao động sản xuất và làm kinh tế, giúp đỡ nhân dân ở địa phương nơi đóng quân xóa đói, giảm nghèo...
Năm 2013 với nhiều thời cơ và nguy cơ, hãy biến nguy cơ thành thời cơ bằng sức mạnh đoàn kết nhất trí, bằng bản lĩnh và sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Đồng bào, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, hãy nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.
QĐND

40 năm Chiến thắng “Hà Nội – Điện biên phủ trên không” (12/1972-12/2012): Tự hào, tin tưởng, vững bước đi lên (29/12/2012)

Sáng nay, 29-12, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Hà Nội,  Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đảng đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 40 năm Chiến thắng "Hà Nội - Điện biên phủ trên không”. Trước khi diễn ra buổi lễ, Đoàn đại biểu Đảng, nhà nước và MTTQVN đã vào lăng viếng Hồ Chủ tịch và viếng Đài tưởng niệm các Liệt sĩ vô danh.
Tham dự buổi lễ có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,  Chủ tịch UBTW MTTQVN Huỳnh Đảm cùng nhiều đồng chí lãnh đạo, nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười và Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi lẵng hoa đến chúc mừng buổi lễ.

Mở đầu buổi lễ là Màn trình diễn Sử thi nghệ thuật Âm vang chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không hoành tráng. Màn sử thi được thể hiện bằng hai phần. Phần thứ nhất mang tựa đề Linh thiêng Hà Nội mặt đất, bầu trời. Phần thứ hai mang tựa đề Hà Nội Điện biên phủ trên không. Hà Nội với những dấu ấn lịch sự từ ngàn năm văn hiến đến chiến dịch 12 ngày đêm đánh trả quyết liệt B52 của giặc Mỹ hôm nay lần lượt được các nghệ sĩ tái hiện lại bằng âm thanh và hình ảnh thật đậm nét, với những ca khúc nối tiếp nhau khiến người xem ngập tràn cảm xúc vừa đau thương, vừa tự hào, oanh liệt. 
Phát biểu tại buổi lễ, sau khi nhắc lại những ngày tháng hào hùng của quân và dân Thủ đô Hà Nội trong 12 ngày đêm của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định: Chiến thắng này là một trong những chiến thắng mang tầm vóc lịch sử của Thế kỷ 20, viết tiếp những trang sử vàng chói lọi trọng sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, giữ nước của dân tộc ta. Chiến thắng đó đã góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN, giữ vững thành quả cách mạng, tạo ra cục diện mới để quân và dân ta thự hiện trọn vẹn lời dạy của Bác hồ kính yêu: Đánh cho Mỹ cút, đáng cho ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân năm 1975. 
Chiến thắng này đã chứng minh hùng hồn chân lý: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Một đất nước không rộng, người không đông nhưng biết đoàn kết đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình dân chủ và CNXH dưới sự lãnh đạo tài tình của một Đảng Mác xít chân chính, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới thì có thể chiến thắng mọi kẻ thù dù chúng có các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất.
Chiến thắng này đã góp phần làm tăng sức mạnh cho các phong trào cách mạng trên toàn thế giới, củng cố niềm tin chiến thắng cho các lực lượng tiến bộ đấu tranh vì hòa bình của nhân loại.
Chiến thắng này là chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, chiến thắng của nghệ thuật quân sự Việt Nam mưu trí, sáng tạo, lấy ít địch nhiều, ấy nhỏ đánh lớn…
Chủ tịch nước khẳng định: Làm nên chiến thắng to lớn này có sự đóng góp, hy sinh to lớn của các lực lượng vũ trang, nhân dân các địa phương miền Bắc mà trực tiếp là Thủ đô Hà Nội. Trong 12 ngày đêm, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã đã phải hứng chịu hơn 80 nghìn tấn bom đạn tàn phá của địch. Nhưng quân và dân ta đã nén đau thương thành hành động cách mạng, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: Ngày nay đất nước ta đã hòa bình, thực hiện cương lĩnh Đại hội Đảng lần thứ XI, chúng ta đang phấn đấu đến năm 2020, xây dựng nước ta cơ bản thành nước công nghiệp hiện đại, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nhiệm vụ này đòi hỏi sự phấn đấu rất cao của toàn dân, toàn Đảng, toàn quân ta. Chiến công này tiếp tục cổ vũ, khích lệ chúng ta vững bước đi lên.
Những bài học về dự báo tình hình, chuẩn bị và tổ chức lực lượng; nghệ thuật xây dựng thế trận phòng không nhân dân; tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để kháng chiến thắng lợi, cần được vận dụng sáng tạo và phát triển trong điều kiện mới.
Chủ tịch nước khẳng định, trải qua những tàn phá nặng nề và hy sinh to lớn trong chiến tranh, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam thiết tha, quý trọng hòa bình để xây dựng và phát triển  đất nước. Kế thừa và phát huy truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam, "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, nhân dân ta luôn mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác cùng phát triển với các nước trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, theo tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của đất nước; xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, chúng ta tự hào về những chiến công oanh liệt, truyền thống yêu nước, đoàn kết, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc; tự hào về Đảng ta, một Đảng mác xít kiên trung, có đường lối đúng đắn, sáng tạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; tự hào với truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, một Quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; tự hào về dân tộc ta, một dân tộc giầu lòng yêu nước, yêu chuộng hòa bình và công lý, không bao giờ chịu cúi đầu, khuất phục trước bất kỳ thế lực xâm lược hung bạo nào; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm giữ gìn và phát huy cao độ truyền thống vẻ vang đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. 
 "Hào khí Việt Nam, vận hội mới của đất nước thôi thúc chúng ta tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, nỗ lực phấn đấu xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xứng đáng với công lao to lớn, khát vọng cháy bỏng và sự hy sinh cao cả của các thế hệ đi trước, viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh.
Thay mặt những người trực tiếp chiến đấu trong thời kỳ này ,Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó Tư lệnh Quân chủng PKKQ, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Tên lửa 57, Trung đoàn 261, sư đoàn 361 thời kỳ diễn ra 12 ngày đêm đánh B52 năm 1972 phát biểu bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Đảng và bác Hồ kính yêu, tới Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã giáo dục, rèn luyện các ông trưởng thành để cống hiến tuổi xuân cho Tổ quốc. Ông kể lại: Cấp trên giao quân chủng PKKQ đến ngày 3/12/1972, phải hoàn thành toàn bộ công tác chuẩn bị đánh B52. "Mặc dù không nói ra nhưng mọi người trong chúng tôi đều biết đây là cuộc đối đầu không cân sức, không hề dễ dàng đối với quân và dân ta - ông hồi tưởng - Đã có người phân vân, thậm chí có một bộ phận nhân dân lo lắng: Làm sao đánh được B52?” Trước tình hình này bộ đội ta quyết tâm cao theo hướng: "Ra đa vạch nhiễu tìm thù, tên lửa, pháo phòng không sáng tạo cách đánh, không quân lao vào đội hình máy bay địch, phá vỡ thế trận tiêu diệt địch”.
Năm tháng đã qua đi, hôm nay các ông lại càng thấm thía những hy sinh, cống hiến của quân và dân ta cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, nhất là ký ức về12 ngày đêm vô cùng ác liệt. Nhiều đồng chí đã hy sinh oanh liệt. Giọng ông trùng xuống: Có trắc thủ dù bị thương rất nặng nhưng vẫn gượng sức mình báo cáo chính xác phần tử mục tiêu về sở chỉ huy trước khi ngã xuống… "Và vẫn còn đây là lá thư viết dở trước giờ xuất kích của một đồng chí phi công để lại ở tuổi hai mươi…” - Ông Phiệt nghẹn ngào nói.
Đại diện cho 23 triệu đoàn viên, thanh niên cả nước, một phi công trẻ phát biểu: Nguyện viết tiếp những trang sử vẻ vang nối tiếp truyền thống cha ông để phát huy trí tuệ, lòng nhiệt huyết, sức sáng tạo với tinh thần "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: "Dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.  

Phát biểu cảm tưởng với phóng viên báo Đại đoàn kết về buổi lễ này, Ngài Bondarev Victorovich, Tổng Tư lệnh Không quân Liên bang Nga nói: "Hoạt động buổi lễ hôm nay rất là tốt và hoành tráng. Tôi nghĩ rằng buổi lễ hôm nay có ý nghĩa quan trọng là giáo dục rất tốt cho thế hệ trẻ Việt Nam. Quan hệ truyền thống gắn bó của hai nước đã có từ lâu đời từ hơn nửa thế kỷ trước và tôi tin rằng chúng ta tiếp tục duy trì phát triển giưa nhân dân hai nước hiện tại cũng như trong tương lai”

Trần Ngọc Kha

2012: Nông nghiệp vượt khó


Mặc dù kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng năm 2012 thực sự là một năm vượt khó thành công của nông nghiệp Việt Nam với thành tích kim ngạch xuất khẩu đạt 27,5 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2011.
Xuất khẩu gạo của Việt Nam chưa thể cạnh tranh với Ấn Độ và Pakistan. Ảnh: VOV
Năm nay cũng là năm lúa gạo Việt Nam đạt sản lượng cao kỷ lục, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu hơn 8 triệu tấn gạo. Những kết quả ấn tượng này vừa được Bộ NN-PTNT công bố tại Hội nghị Tổng kết năm 2012 và kế hoạch 2013 diễn ra sáng 28/12 tại Hà Nội. Tuy nhiên, cũng tại Hội nghị này, những vấn đề còn tồn tại của ngành nông nghiệp Việt Nam một lần nữa lại được đặt ra.         
Theo Bộ NN&PTNT, trong năm 2012 có ba mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch hơn 3 tỷ USD và 5 mặt hàng đạt kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Tuy nhiên, kết quả này có được lại chủ yếu nhờ vào sự tăng trưởng về số lượng. Trong tất cả các mặt hàng xuất khẩu, duy nhất hạt tiêu là mặt hàng có giá xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm ngoái. Theo nhiều chuyên gia, giá xuất khẩu giảm khiến cho nông dân chưa được hưởng lợi nhiều từ sự tăng trưởng này.
Ông Nguyễn Văn Bộ, Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam nêu ý kiến: “Với xuất khẩu gạo, chúng ta xuất khẩu được hơn 8 triệu tấn nhưng giá xuất khẩu không tăng, thậm chí có xu hướng giảm vì chúng ta đang phải cạnh tranh với rất nhiều nước cũng tham gia vào thị trường này. Mà muốn cạnh tranh thì phải giảm giá thành sản xuất và nâng cao chất lượng”.     
Một vấn đề nổi cộm trong năm 2012 là tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm. Kiểm tra hơn 12.000 cơ sở sản xuất thì gần 20% không đạt chất lượng. Khoảng 7% số mẫu nông sản nhiễm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. 26% mẫu thịt vi phạm chỉ tiêu vi sinh vật. Nhiều mẫu hàng xuất khẩu của Việt Nam bị trả về nước do không đảm bảo yêu cầu.
Nhiều đại biểu cho rằng, để tránh được rủi ro trên thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, đã đến lúc ngành nông nghiệp Việt Nam bắt buộc phải hướng tới sản xuất nông sản chất lượng cao.                     
Theo ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, Bộ NN-PTNT: “Nếu chúng ta muốn có thị trường tốt và ổn định, có giá trị thu nhập cao, nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người nông dân, thì phải làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, Đó là thực hiện các quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt và sản xuất ra các loại thực phẩm an toàn, đặc biệt là các sản phẩm chủ lực của Việt Nam”.           
Ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN-PTNT cho biết: “Ngành chăn nuôi là một ngành kinh tế kỹ thuật, một ngành có đầu tư lớn và vòng đời rất dài, không thể nào đầu tư cho chăn nuôi như đi buôn chuyến được, đắt thì nuôi, rẻ thì bỏ. Nếu như vậy thì lúc nào chúng ta cũng bị thụ động về thực phẩm và người chăn nuôi luôn bị thua thiệt”.     
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khẳng định, nông nghiệp là nòng cốt, trụ cột của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong thời điểm khó khăn hiện nay. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu thời gian tới, ngành nông nghiệp cần tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị của nông sản.                
Mục tiêu đáng chú ý nhất trong năm 2013 của Bộ NN-PTNT là làm sao tăng thêm 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. Và để thực hiện mục tiêu này, Hội nghị cũng xác định, chỉ có cách duy nhất là phải đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Trong đó, chú trọng đầu tư cho các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh và xây dựng các mô hình sản xuất mới.
Đỗ Thủy - 

Việt Nam: Tâm điểm hợp tác của Hàn Quốc hướng ra châu Á


Ngày 22/12 đánh dấu tròn 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc, một mối quan hệ được đánh giá là phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có trong tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, giao lưu nhân dân.
Hai nước hiện đã nâng cấp mối quan hệ lên mức “Đối tác hợp tác chiến lược”, và đang nỗ lực thúc đẩy mối quan hệ này trở nên sâu sắc và hiệu quả hơn trong “kỉ nguyên châu Á”. 
Cách nhau hơn 3500 km, Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều sự tương đồng về lịch sử, tôn giáo và văn hóa. Nhưng ý nguyện chung nhằm xây dựng đất nước vững mạnh và hòa bình đã đưa Việt nam và Hàn Quốc ngày càng xích lại gần nhau. 
Kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước từ mức 500 triệu USD năm 1992, hiện đã tăng lên 18 tỉ USD, và có khả năng vượt mức mục tiêu 20 tỉ USD vào năm 2015. Hiện Hàn Quốc cũng là nước cung cấp viện trợ ODA nhiều thứ hai cho Việt Nam, sau Nhật Bản. 
Ông Trần Trọng Toàn, đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết: “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc phát triển tốt đẹp trong 20 năm qua. Việt Nam hiện đã trở thành bạn hàng lớn thứ hai của Hàn Quốc, và Hàn Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam. Với 123 ngàn người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở Hàn Quốc, và 130 ngàn người Hàn Quốc đang làm việc và sinh sống tại Việt Nam, mối quan hệ năng động này đã trở thành hình mẫu của quan hệ giữa các nước”. 
Về vấn đề này, ông Park Hae-yun, Vụ trưởng Vụ các vấn đề Nam Á và Thái Bình Dương Bộ Ngoại giao và Ngoại thương Hàn Quốc nói: “Việt Nam là quốc gia đóng vai trò quan trọng trong chiến lược hướng ra châu Á của Hàn Quốc. Trong tương lai, Việt Nam có tiềm năng là một con hổ kinh tế. Nếu kết hợp tiềm năng kinh tế và tài nguyên của Việt Nam với trình độ công nghệ của Hàn Quốc, sẽ đem lại nhiều kết quả hợp tác lớn hơn nữa”. 
Không chỉ là mối quan hệ ngoại giao mang tính “chiến lược”, hai dân tộc Việt – Hàn giờ đây ngày càng gần gũi nhau hơn bởi mối quan hệ “thông gia”. Đó là 50 ngàn cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc. Họ được xã hội Hàn Quốc ghi nhận là những người phụ nữ đảm đang và mẫu mực nhất trong số những cô dâu nước ngoài kết hôn tại Hàn Quốc. 
“Những cô dâu Việt Nam đem lại ấn tượng rất tốt đối với người dân Hàn Quốc. Họ là những phụ nữ chăm chỉ, thương yêu chồng con. Họ dành nhiều tâm sức dạy dỗ con cái và rất kính trọng người già. Điều đó rất giống với văn hóa Hàn Quốc”, ông Park Hae-yun chia sẻ. 
Một quốc gia có nền kinh tế năng động tại Đông Bắc Á. Một quốc gia có nguồn nhân lực trẻ và đầy tiềm năng tại Đông Nam Á. Quan hệ hai nước hiện đang trở thành chất xúc tác đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, cũng như trong lộ trình hướng ra khu vực và Thế giới.
Nguyệt Hà - 

Dấu ấn đối ngoại Việt Nam 2012


 Một trong những điểm nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong năm 2012 là thúc đẩy và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác chiến lược, chủ chốt, theo hướng đi vào chiều sâu và bền vững, nâng cấp quan hệ ngoại giao với các đối tác quan trọng, thúc đẩy quan hệ kinh tế thực chất với các nước, khu vực....
Sau nhiều chuyến công du kể từ khi nhậm chức, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chọn LB Nga là điểm đến đầu tiên tại châu Âu trong chuỗi hoạt động đối ngoại nhà nước của mình (tháng 7/2012). Chuyến thăm trở thành tâm điểm của truyền thông trong nước và quốc tế khi chứa đựng những yếu tố mới, đưa quan hệ ngoại giao hai nước sang trang.
Tại đây, ông được Tổng thống đắc cử V.Putin đón tiếp tại khu dinh thự của ông tại thành phố biển Sochi, điều chưa từng có trong tiền lệ các chuyến viếng thăm cấp cao giữa hai nước. Hai nhà lãnh đạo đã nhất trí đưa quan hệ hợp tác Việt - Nga lên tầm "đối tác chiến lược toàn diện". 
Với Tổng thống Putin, Việt Nam có lẽ là nước có "nhân duyên" đặc biệt khi ông chính là người đã ký văn kiện nâng cấp quan hệ song phương với Việt Nam lên đối tác chiến lược trong chuyến thăm Hà Nội năm 2001.
Năm 2012, không chỉ đưa mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam lên bước phát triển cao hơn, ông còn ký Sắc lệnh "Về các biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại" của LB Nga. Trong đó, khẳng định Việt Nam là một trong 3 đối tác chiến lược quan trọng nhất ở châu Á-TBD (Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam).
Sự bền vững, sâu sắc, thực chất của mối quan hệ thể hiện ở việc hai bên đưa ra hàng loạt chính sách hợp tác ở vùng Viễn Đông của Nga. Lần đầu tiên, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến thăm khu tự trị Nenets và dự lễ đón dòng dầu đầu tiên tại khu mỏ Tây Khosedayuskove của liên doanh dầu khí Rusvietpetro.
Trong chuyến thăm chính thức CH Singapore giữa tháng 9, khi đến thăm Trung tâm Công nghệ cao Fusionopolis, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt cho một loài lan mới màu vàng nhạt, có 5 cánh với cái tên “Trường Lâm” như một lời chúc cho đất nước Singapore phát triển bền vững và thịnh vượng.
Loài lan đẹp có cái tên biểu thị sự trường tồn này cũng có thể ứng cho những ý nguyện về sự phát triển quan hệ Việt Nam và Singapore, khi trong chuyến thăm của Tổng bí thư, hai nước nhất trí nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược.
Trong năm 2013, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long sẽ thăm chính thức Việt Nam nhân kỷ niệm 40 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và cùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký kết Tuyên bố về thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đưa Việt Nam và Singapore trở thành cặp quan hệ đầu tiên trong ASEAN thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.
8 năm kể từ sau cuộc họp nội các chung lần thứ nhất, Việt Nam và Thái Lan mới lại tiến hành cuộc họp nội các chung lần thứ hai tại Hà nội vào cuối tháng 10. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra đã nhất trí phấn đấu nâng quan hệ lên tầm đối tác chiến lược trong thời gian tới.
"Chúng tôi nhận thấy cơ hội nâng cấp quan hệ giữa Thái Lan và Việt Nam trở thành đối tác chiến lược cả ở bình diện song phương, khu vực và quốc tế, cả về chiều rộng và chiều sâu. Hai bên đã thống nhất thành lập một ủy ban hỗn hợp để thực hiện mục tiêu này" - Thủ tướng Yingluck Shinawatra phát biểu từ Hà Nội khi tham dự cuộc họp nội các chung.
Một đối tác ở châu Âu là Italia cũng đang kỳ vọng sẽ sớm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam trong năm tới nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Italia là một trong những nước châu Âu sớm tuyên bố công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Hai bên kỳ vọng sẽ đạt dấu mốc phát triển mới nhân chuyến thăm chính thức Italia của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào đầu năm tới.
Trong năm qua, quan hệ Việt Nam và EU tiếp tục được thúc đẩy với việc hai bên chính thức ký Hiệp định Đối tác và Hợp tác chiến lược toàn diện (PCA). Nhận định vị thế, vai trò của Việt Nam, EU cũng đã chính thức đề nghị Việt Nam ủng hộ thiết lập quan hệ đối tác chiến lược EU - ASEAN....
Không chỉ những chuyến công du ra ngoài nước của lãnh đạo cấp cao Việt Nam, năm 2012 dù kinh tế khó khăn bao trùm, số lượng đoàn cấp cao các nước thăm Việt Nam gia tăng mạnh.
Một chuyên gia ngoại giao cho rằng, so với năm 2011, số lượng đoàn cấp cao đến Việt Nam dự tính tăng gấp 4 đến 5 lần. Nhiều nước thể hiện mong muốn nâng cấp quan hệ cho thấy vai trò và vị thế ngày càng gia tăng của Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Điểm sáng của đối ngoại năm 2012, bên cạnh làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các nước, nhất là các đối tác quan trọng, đó là triển khai chủ trương "chủ động, tích cực hội nhập quốc tế", coi trọng và phát huy vai trò trong ASEAN, phối hợp chặt chẽ với quốc phòng - an ninh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Bên cạnh đó, nhìn xuyên suốt các sự kiện, điểm dễ nhận thấy là ngoại giao chính trị thuận lợi đã và đang thúc đẩy cho hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước thông qua các cơ chế song phương và đa phương.
Đó là đàm phán các Hiệp định thương mại tự do then chốt như Hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương giữa Việt Nam với các nước hai bên bờ Thái Bình Dương bao gồm: Australia, New Zealand, Brunei, Singapore, Malaysia, Peru, Chile và Mỹ. Đó là các FTA song phương với EU, Hàn Quốc, Liên minh thuế quan Nga-Belarus-Kazakhstan, Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA)...
Bên cạnh đó là những hiệu quả tích cực cho việc vận động các nước công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Cho đến nay, đã có 34 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Thông qua ngoại giao kinh tế song phương, Việt Nam cũng triển khai mạnh mẽ các hoạt động quảng bá, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút FDI, ODA, giải quyết các vấn đề tranh chấp nảy sinh trong quan hệ kinh tế quốc tế với các đối tác.
Linh Thư

Tín ngưỡng thờ Vua Hùng trở thành di sản nhân loại


Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc vừa chính thức thông qua quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ) là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghi lễ giỗ Tổ Hùng Vương vào tháng 3 hàng năm tại Phú Thọ. Ảnh: Báo ảnh Việt Nam
Đúng 12h10 (giờ Paris, tức 18h10 giờ Việt Nam) ngày 6/12, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang diễn ra ở Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể.
Như vậy, người dân Việt Nam đã có thêm một di sản được thế giới vinh danh và càng tự hào hơn khi đó là di sản tôn vinh tinh thần và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, hơn 86 triệu con Lạc cháu Hồng sinh sống trên dải đất Việt Nam đã lập tới 1.417 di tích thờ các vua Hùng, rồi tổ chức lễ hội hàng năm để bày tỏ tấm lòng tri ân tiên tổ. Đây thực sự là một minh chứng khẳng đình, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một di sản văn hóa độc đáo và có giá trị trường tồn với thời gian.                                       
Cứ mỗi tháng Ba về, kẻ xa, người gần dù bận đến mấy cũng cố gắng thu xếp hành hương về miền đất Tổ. Không chỉ bây giờ, mà hàng ngàn đời nay, người Việt đã sống như thế.
"Sự tử là để sự vinh, sự vong là để sự tồn", trong tâm thức của người Việt Nam, Vua Hùng có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, tình cảm của dân tộc, vừa thiêng liêng, vừa cụ thể và cũng hoàn toàn khác với những biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới.
Giáo sư, Viện sĩ, Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đánh giá: “Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng có thể nói là hết sức độc đáo, giữ vai trò trung tâm, đoàn kết tập hợp tất cả các thành phần dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Có sức sống rất bền bỉ, vượt qua cả thời Bắc thuộc, vượt qua biết bao thử thách trong lịch sử để trường tồn cùng đất nước, dân tộc”.
Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một sự kết nối lịch sử, vượt qua rào cản của các triều đại phong kiến, vượt lên trên sự khác biệt của các chế độ xã hội và sự khác biệt tôn giáo… để có biểu tượng cội nguồn duy nhất. Đó cũng là điều căn bản triết lý để hình thành một quốc gia thống nhất.
“Không chỉ ở thượng tầng kiến trúc nhà nước, mà ở trong lòng của mỗi con người. Bởi mỗi con người, mỗi gia đình đều có tổ tiên của mình. Và người ta coi cả quốc gia, dân tộc Việt Nam cũng là một gia đình, cũng có tổ tiên. Như thế nó là tình cảm hóa, chứ không phải là ý thức chính trị nữa. Khi trở thành tình cảm và nhất là được tín ngưỡng thì tính bền vững là rất cao”.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1969: "Từ lòng biết ơn đến sự tôn kính các thế hệ tiền nhân và tổ tiên gia đình, dòng họ; dân tộc ta đã phát triển hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần ấy thành một đạo lý và tín ngưỡng dân tộc độc đáo, là tín ngưỡng và phụng thờ một Tổ tiên chung của toàn dân tộc - các Vua Hùng". Vì lẽ đó, thờ cúng Hùng Vương đã và đang có sức lan tỏa mãnh liệt, trở thành chất keo bền chặt gắn nghĩa "đồng bào".
Ông Nguyễn Doãn Khánh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ: “Giá trị của đạo lý Uống nước nhớ nguồn là tạo nên nền tảng của người Việt. Đây chính là sức mạnh để người Việt chúng ta chiến thắng trong việc chống thiên tai trong thời kỳ dựng nước, giữ nước đầu tiên, sau này là quá trình đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới”.
Trong ngày giỗ Tổ năm Bính Tuất 1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng - lúc đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã thay mặt chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Đền Hùng dâng lên Quốc Tổ tấm bản đồ đất nước và 1 thanh gươm quý, nhằm cáo với Tổ tiên đất nước đã thu về một mối và thể hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Hẳn không nhiều người biết câu chuyện này. Và thêm khẳng định, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là biểu tượng cho khát vọng trường tồn, độc lập của dân tộc.     
Việt Cường - 


Tự phê bình và phê bình trước tiên là để cảnh tỉnh, răn đe và ngăn chặn


 (HNMO) - Ngày 1-12, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội đã tiếp xúc cử tri đơn vị bầu cử số 1 gồm 3 quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm và Tây Hồ. Cùng dự có UVTƯ Đảng, Chủ tịch HĐND TP Hà Nội Ngô Thị Doãn Thanh.
Cử tri tại 3 quận nói trên đã đồng tình, đánh giá cao kết quả kỳ họp thứ 4 có nhiều đổi mới, nhiều cải tiến từ cách tổ chức, tiến hành và điều hành kỳ họp. Đặc biệt, các cử tri hoan nghênh tinh thần làm việc trách nhiệm, tích cực, dân chủ, thẳng thắn và xây dựng của các đại biểu QH; chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp rất thẳng thắn, dân chủ, thể hiện được trách nhiệm và trình độ của đại biểu QH và một số bộ trưởng trong việc mạnh dạn đưa ra những giải pháp trong lĩnh vực phụ trách, thể hiện trách nhiệm trước cử tri. Cử tri đặc biệt hoan nghênh việc QH thông qua nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn.
Tuy nhiên, cử tri còn băn khoăn về tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ suy thoái; có những cán bộ có chức, có quyền giàu nhanh chưa được làm rõ; tình trạng tham nhũng, nợ xấu, sai phạm trong quản lý đất đai chưa được giải quyết; những yếu kém trong công tác cán bộ chưa được khắc phục. Tại kỳ họp QH vừa qua, đại biểu QH chất vấn rất thẳng thắn, song trả lời của một số bộ trưởng còn né tránh, chưa thẳng thắn nhận khuyết điểm. Dù nhiều cử tri gửi gắm niềm tin vào QH, nhưng còn lo lắng và cho rằng việc thực hiện NQ T.Ư 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) rất khó thực hiện; đồng thời kiến nghị với QH phải kiên trì, kiên quyết chống bằng được tham nhũng.
Tại cuộc tiếp xúc, thay mặt Đoàn đại biểu QH TP Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá, liên quan thực hiện Nghị quyết T.Ư 4, khóa XI về xây dựng Đảng, những yếu kém nêu trong Nghị quyết là những vấn đề phức tạp, không thể khắc phục ngay mà phải thực hiện trong nhiều nhiệm kỳ và tại kỳ họp thứ 4, QH khóa XIII tinh thần NQ TƯ 4 đã thể hiện rõ như cử tri thấy. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề liên quan tới sự sống còn của Đảng; đấu tranh tự phê bình và phê bình phải có lý, có tình, trước tiên là để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn, từ đó, mỗi tổ chức, cá nhân tự giác sửa đổi mình. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, NQ TƯ 4 ban và thực hiện thời gian ngắn, không chỉ có tự phê bình và phê bình mà còn 4 nhóm vấn đề, đấu tranh làm sao có lý có tình, chứ không chỉ có kỷ luật. Tư tưởng của NQ là nhân văn, đánh thức, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn. Việc thực hiện NQ cũng không chỉ có kiểm điểm, tự phê bình và phê bình mà phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp; đấu tranh, phê bình là để giúp nhau cùng tiến bộ, làm việc tốt hơn. Những cán bộ cố tình vi phạm, không sửa chữa thì xử lý kỷ luật trên cơ sở quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm của QH trong vấn đề giám sát, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đồng tình với các cử tri, để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, NQ của QH đã đề ra thì khâu quyết định là tổ chức thực hiện, phải có con người, đội ngũ cán bộ đảm đương được công việc được giao. Trách nhiệm của QH, các cơ quan QH và từng đại biểu QH là phải tăng cường giám sát, đôn đốc thực hiện, làm dứt điểm từng việc cụ thể, tránh chung chung dàn trải, hiệu quả không cao.
Liên quan vấn đề đối ngoại, Tổng Bí thư nêu rõ, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Giải quyết các vấn đề nhạy cảm trong khu vực phải trên cơ sở giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Về các ý kiến của cử tri 3 quận bức xúc nêu việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý đất đai, đề bù giải phóng mặt bằng, xây dựng các công trình dân sinh còn chậm trễ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hoan nghênh lãnh đạo quận lãnh đạo TP Hà Nội, các quận đã trả lời cụ thể, rõ ràng những vấn đề cử tri nêu. Đồng thời đề nghị lãnh đạo thành phố, quận tiếp tục tập hợp, nắm chắc tâm tư nguyện vọng, giải quyết thoả đáng các vấn đề cử tri nêu theo tinh thần chính quyền hết lòng vì dân nhưng trên cơ sở của pháp luật. Việc nào chưa rõ thì cùng trao đổi, chia sẻ thông cảm và từng bước giải quyết, tạo sự gắn bó giữa cử tri với các đại biểu QH và HĐND và chính quyền các cấp.
Vũ Thủy