Thursday, October 11, 2018

Việt Nam luôn đồng hành và đóng góp cho các mục tiêu cao cả của Liên hợp quốc

Ngày 29/09/2018-11:02:00 AM
Đây là nội dung bài phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 73 diễn ra ngày 28/9/2018 ở New York, Hoa Kỳ với chủ đề “Vì một thế giới hòa bình, công bằng và phát triển bền vững”.
Ảnh: TTXVN
Việt Nam đã đồng hành và đóng góp cho các mục tiêu cao cả của Liên hợp quốc trong hơn 70 năm qua và luôn ủng hộ mạnh mẽ vai trò trung tâm của Liên hợp quốc trong hệ thống quốc tế đa phương và tích cực đóng góp thực hiện các trụ cột hợp tác cơ bản của Liên hợp quốc về duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, hợp tác phát triển và bảo đảm quyền con người, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định.
Từ một nước nghèo kém phát triển, người dân thiếu lương thực, Việt Nam đã vươn lên, đạt tăng trưởng GDP cao trên 6% trong hơn 20 năm qua, là nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới và từ năm 2010 trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, đời sống của gần 100 triệu người dân được nâng cao. Chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký, tham gia và đang đàm phán 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), mở ra quan hệ thương mại tự do với gần 60 quốc gia, đối tác lớn trên thế giới.
Việt Nam cũng đã tổ chức thành công Năm APEC 2017, Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132, Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN 2018, Hội nghị Hợp tác Tiểu vùng Mê-kông lần 6, thực hiện Tầm nhìn 2025 về xây dựng Cộng đồng ASEAN và tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia nhiều cơ chế quan trọng của Liên hợp quốc và đóng góp có trách nhiệm trên các lĩnh vực khác nhau.
Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu hơn nữa cho công bằng và phát triển bền vững; thúc đẩy bình đẳng, hỗ trợ các nhóm yếu thế; bảo vệ tốt môi trường; bảo đảm quyền cho mọi người dân, đồng thời đề cao tinh thần đối thoại và hợp tác trong vấn đề quyền con người. Việt Nam cũng đã nỗ lực bảo vệ tốt các di sản văn hóa và thiên nhiên, gìn giữ bản sắc dân tộc. Đặc biệt, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDG 2015 của Liên hợp quốc, nhất là về xóa đói giảm nghèo.
Những thành tựu của Việt Nam về phát triển bền vững, hội nhập quốc tế, giảm nghèo có sự hỗ trợ quý báu của cộng đồng quốc tế, trong đó có Liên hợp quốc.
Thế giới đang chuyển động nhanh chóng với động lực mạnh mẽ từ những tiến bộ vượt bậc về khoa học, công nghệ trong cách mạng công nghiệp 4.0 và sự lan tỏa theo xu thế tất yếu của toàn cầu hóa. Điều này mở ra nhiều cơ hội mới để đưa nhân loại bước vào giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử, góp phần củng cố xu thế lớn của toàn cầu về hòa bình, hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, thế giới cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới, rất to lớn. Hòa bình thế giới vẫn chưa được bảo đảm. Tư duy cường quyền đề cao sức mạnh, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, sự gia tăng các biện pháp đơn phương tiếp tục là mối đe dọa đối với hòa bình, ổn định quốc tế…
Trong bối cảnh đó, vai trò của Liên hợp quốc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong việc kiến tạo những nền tảng phát triển mới để xử lý có hiệu quả các thách thức toàn cầu. Các quốc gia cần tiếp tục đề cao vai trò của Liên hợp quốc và cùng nhau đoàn kết, phấn đấu “Vì một thế giới hoà bình, công bằng, và phát triển bền vững”.
Hòa bình, tự do và thịnh vượng luôn là mong mỏi, khát vọng của mọi dân tộc. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tiến bộ của nhân loại không chỉ được đo bằng những thành tựu của công nghệ mà trước hết phải là hòa bình và thịnh vượng và phải biết chắt chiu, nắm lấy từng cơ hội dù nhỏ nhoi cho hòa bình.
Việt Nam tự hào là một thành viên tích cực của Liên hợp quốc. Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa vào việc xây dựng các thể chế đa phương và thực hiện những trách nhiệm chung của cộng đồng quốc tế.
Vừa qua, Việt Nam đã ứng cử làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Việt Nam mong muốn nhận được sự ủng hộ của tất cả các quốc gia thành viên, đồng thời cam kết sẽ luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế và Liên hợp quốc.
Với quan hệ đối tác toàn cầu, đoàn kết và quyết tâm cao của chúng ta, các Mục tiêu phát triển bền vững và Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc sẽ được thực hiện thành công, đáp ứng khát vọng của toàn nhân loại vì một thế giới hòa bình, công bằng và phát triển bền vững./.
Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào công việc chung của LHQ

Thủ tướng khẳng định Việt Nam sẽ đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào các công việc chung của LHQ, tham gia chủ động, có trách nhiệm vào các sáng kiến của LHQ về phát triển và gìn giữ hoà bình.
Chiều 27/9 theo giờ địa phương, (sáng 28/9 theo giờ Việt Nam), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có các cuộc gặp với Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Maria Fernanda Espinosa Garces, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres.
Trao đổi với Chủ tịch Đại hội đồng Maria Fernanda Espinosa Garces, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định coi trọng quan hệ với LHQ; ủng hộ vai trò trung tâm của LHQ; đề nghị LHQ ưu tiên thúc đẩy ngoại giao phòng ngừa, ủng hộ giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Thủ tướng khẳng định Việt Nam sẽ đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào các công việc chung của LHQ, tham gia chủ động, có trách nhiệm vào các sáng kiến của LHQ về phát triển và gìn giữ hoà bình.
Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào công việc chung của LHQ
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trao đổi với Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Maria Fernanda Espinosa Garces. Ảnh: VGP
Tại cuộc gặp với Tổng Thư ký Antonio Guterres, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao các nỗ lực của Tổng Thư ký trong việc cải tổ LHQ, đặc biệt là hệ thống phát triển LHQ để hỗ trợ tốt hơn các nước trong việc thực hiện Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030.
Thủ tướng mong muốn LHQ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam thực hiện thành công các Mục tiêu Phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào công việc chung của LHQ
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres. Ảnh: VGP
Chủ tịch Đại hội đồng và Tổng Thư ký LHQ đánh giá cao và cảm ơn các đóng góp tích cực của Việt Nam vào việc thực hiện các công việc chung của LHQ và các sáng kiến cải tổ phương thức hoạt động của LHQ, mong muốn Việt Nam tiếp tục đi đầu thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs), khẳng định LHQ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam.
Tổng Thư ký LHQ bày tỏ quan tâm tới tình hình Biển Đông và khẳng định chủ trương nhất quán của LHQ ủng hộ giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. 
Thủ tướng tiếp xúc song phương một số lãnh đạo các nước
Cũng trong ngày 27/9 (giờ địa phương), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có các cuộc gặp với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cuba Miguel Diaz-Canel, Tổng thống Buglaria Rumen Radev, Tổng thống Croatia Kolinda Grabar-Kitarovic, Thủ tướng Fiji Josaia Voreqe Bainimarama và Thủ tướng Saint Lucia Allen Chastanet.
Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào công việc chung của LHQ
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cuba Miguel Diaz-Canel. Ảnh: VGP
Tại các cuộc gặp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thông báo cho các nhà lãnh đạo các nước về những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội và việc triển khai đường lối đối ngoại của Việt Nam.
Thủ tướng đề nghị các nước ủng hộ Việt Nam làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020 - 2021 và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đóng góp nhiều hơn nữa vào việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế một khi được tín nhiệm bầu vào cơ quan quan trọng này.
Các nhà lãnh đạo các nước đánh giá cao vai trò, vị trí ngày càng quan trọng của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế, bày tỏ sự ủng hộ và tin tưởng Việt Nam sẽ đảm đương tốt cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và cam kết tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam tại LHQ và các tổ chức quốc tế, khu vực khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Theo VGP

    Đóng góp của Việt Nam cho lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc

    13:45 Thứ Sáu ngày 28/09/2018


    Theo (TTXVN/VIETNAM+)

    Việt Nam đã và đang đóng góp tích cực vào mọi lĩnh vực hoạt động của Liên hợp quốc

    20:17 | 24/09/2018

    Trước khi lên đường đi New York, Hoa Kỳ tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao khóa 73 Đại Hội đồng Liên hợp quốc, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có cuộc trả lời phỏng vấn báo chí về sự kiện này. Báo Thế Giới & Việt Nam trân trong giới thiệu.

    Thưa Thủ tướng, được biết Thủ tướng sẽ tham dự và có bài phát biểu quan trọng tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 73 Đại Hội đồng Liên hợp quốc diễn ra tại New York trong vài ngày tới. Xin Thủ tướng đánh giá về vai trò và tầm quan trọng của đối ngoại đa phương đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển của Việt Nam hiện nay cũng như những đóng góp quan trọng của Việt Nam đối với công việc chung của Liên hợp quốc?
    Ngay từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã coi Đối ngoại đa phương là một trụ cột quan trọng trong đường lối Đối ngoại của Việt Nam.
    Khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có Thư đề nghị Liên hợp quốc công nhận nền độc lập của Việt Nam và tiếp nhận Việt Nam là một thành viên của Liên hợp quốc. Trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước, khi thế giới vẫn bị chia rẽ bởi Chiến tranh lạnh và ý thức hệ, Việt Nam đã kết hợp khéo léo đường lối đối ngoại đa phương và song phương để tạo ra một mặt trận đối ngoại thống nhất, huy động được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế yêu chuộng hòa bình ủng hộ Việt Nam.
    viet nam da va dang dong gop tich cuc vao moi linh vuc hoat dong cua lien hop quoc
    Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
    Những hoạt động tiêu biểu của đối ngoại đa phương là các Hội nghị Geneve 1954 và Hội nghị Paris 1973 đã góp phần chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
    Sau khi nước nhà thống nhất, Việt Nam đã vượt qua tình thế bị bao vây cấm vận, từng bước gia nhập các tổ chức quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta đã ký kết nhiều hiệp định kinh tế thương mại đa phương, song phương. Việt Nam luôn nỗ lực là một thành viên có trách nhiệm trong mỗi tổ chức mà chúng ta tham gia, là một đối tác tin cậy, là một thị trường mở cửa và đầy tiềm năng.
    Kể từ khi gia nhập Liên hợp quốc - tổ chức đa phương lớn nhất toàn cầu -năm 1977, Việt Nam đã và đang là một thành viên có trách nhiệm và đóng góp tích cực vào mọi lĩnh vực hoạt động của Liên hợp quốc, đồng thời là một trong những quốc gia đi tiên phong trong thúc đẩy hòa bình, tiến bộ, hợp tác và phát triển trên thế giới. Việt Nam cũng là quốc gia tích cực, có những đóng góp cụ thể vào quá trình xây dựng và thực thi các điều ước quốc tế của Liên hợp quốc và xây dựng một thể chế đa phương toàn cầu công bằng, minh bạch và hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng chung của toàn nhân loại.
    Đóng góp của Việt Nam đã để lại những dấu ấn đậm nét được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, đặc biệt là trong hoạt động của Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế-xã hội và nhiều cơ quan trực thuộc Liên hợp quốc.
    Trong vai trò Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam đã đóng góp vào nỗ lực chung xử lý xung đột ở một số khu vực, tăng cường hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, có sáng kiến cụ thể về tăng cường vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực hòa bình và an ninh. Tiếp theo thành công đó, hiện nay chúng ta được nhiều nước ủng hộ để một lần nữa ứng cử vào cơ quan hết sức quan trọng này trong nhiệm kỳ 2020-2021.
    Việt Nam cũng đóng góp tích cực vào việc xây dựng và triển khai Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đến năm 2030 của Liên hợp quốc và đi tiên phong trong việc áp dụng những mô hình hợp tác mới, như mô hình “Thống nhất hành động - Một Liên hợp quốc” tại Việt Nam.
    Ba năm qua, chúng ta luôn có vai trò nòng cốt, chủ trì soạn thảo Nghị quyết hằng năm của Hội đồng Nhân quyền về chống biến đổi khí hậu và thúc đẩy quyền con người. Cuối năm 2016, lần đầu tiên nước ta đã có cán bộ tham gia và được bầu làm Phó Chủ tịch thứ hai Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC).
    Chúng ta cũng tham gia tích cực vào nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng ở khu vực và thế giới, như Cộng đồng Pháp ngữ, Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM),…
    Tham gia ASEAN, Việt Nam đã chứng tỏ vai trò của một thành viên chủ động, tích cực với nhiều sáng kiến trong xây dựng Cộng đồng ASEAN, Tầm nhìn năm 2025 về một ASEAN đoàn kết, tự cường và sáng tạo, giữ vai trò trung tâm trong các cơ chế an ninh khu vực. Những hoạt động như vậy đã thể hiện vị thế mới của Việt Nam trong đối ngoại đa phương, từ vị thế bên tham gia, đến nay chúng ta đã khẳng định khả năng trực tiếp đóng góp, định hình các cơ chế quốc tế, khu vực, vì hòa bình và thịnh vượng của nhân loại, đồng thời nâng cao vị thế đất nước.
    Trong bối cảnh thế giới hiện nay các thách thức truyền thống và phi truyền thống ngày càng diễn biến nhanh, phức tạp, buộc các quốc gia, khu vực phải chung tay cùng giải quyết. Vai trò của các cơ chế hợp tác đa phương, trước hết là Liên hợp quốc, hơn lúc nào hết ngày càng trở nên quan trọng. Việt Nam luôn nhất quán trong việc đề cao các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc trong việc giải quyết các xung đột, tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
    Với chúng ta, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương theo tinh thần Chỉ thị 25 CT/TW ngày 8/8/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, không chỉ nhằm nâng cao thế và lực, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn thể hiện niềm tin của người dân Việt Nam vào một thế giới đối thoại đa chiều, tôn trọng luật pháp quốc tế, hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng phát triển.
    Xin Thủ tướng cho biết mục đích, ý nghĩa và các hoạt động chính của Thủ tướng và Đoàn đại biểu cấp cao nước ta tại kỳ họp lần này?
    Kỳ họp lần này của Liên hợp quốc diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến chuyển nhanh chóng và phức tạp.
    Chiến tranh, xung đột, đói nghèo vẫn là những thách thức gay gắt mà cộng đồng quốc tế đang phải đối mặt. Chính vì vậy, với chủ đề “Làm cho Liên hợp quốc gắn kết với tất cả người dân: Vai trò lãnh đạo toàn cầu và chia sẻ trách nhiệm vì xã hội hòa bình, công bằng, bền vững”, tôi sẽ cùng lãnh đạo cấp cao 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc thảo luận, đề xuất các biện pháp hữu hiệu để xử lý các thách thức toàn cầu đối với an ninh và phát triển, cũng như các biện pháp làm cho Liên hợp quốc phục vụ tốt hơn, thiết thực và hiệu quả hơn lợi ích của mọi quốc gia, mọi người dân.
    viet nam da va dang dong gop tich cuc vao moi linh vuc hoat dong cua lien hop quoc
    Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng Thư ký Liên Hợp quốc Antonio Guterres tại Trụ sở LHQ, tháng 5/2017. 
    Tham dự kỳ họp quan trọng lần này, tôi và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam mang theo một thông điệp mạnh mẽ: “Là một thành viên tích cực, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam cam kết làm hết sức mình, trong khả năng và điều kiện cho phép để đóng góp hiệu quả hơn nữa vào công việc chung của cộng đồng quốc tế, vì một thế giới hoà bình, hợp tác và phát triển; một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế công bằng, dân chủ và dựa trên luật lệ”.
    Là quốc gia từng phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt, Việt Nam cảm nhận sâu sắc những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra và trân trọng giá trị của hòa bình. Đồng thời, Việt Nam cũng là một tấm gương sáng về thành tựu vượt qua đói nghèo, hàn gắn vết thương chiến tranh và hòa giải các mâu thuẫn. Từ chỗ là một quốc gia nghèo, kém phát triển, chúng ta đã nỗ lực vươn lên để từ năm 2010 trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình và là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong nhiều năm. Việt Nam được Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới (WB) và nhiều định chế quốc tế khác đánh giá là một trong những quốc gia điển hình về xóa đói, giảm nghèo và thực hiện thành công các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs).
    Chúng ta sẽ tiếp tục vai trò tiên phong trong ứng phó biến đổi khí hậu ở châu Á, thực hiện tốt các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đến năm 2030, Thoả thuận Paris về chống biến đổi khí hậu và các khuôn khổ hợp tác, các chương trình nghị sự quan trọng khác của Liên hợp quốc. Chúng ta mong muốn học hỏi từ cộng đồng quốc tế, cũng như chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống của người dân.
    Mục đích của Việt Nam trong hoạt động tại Liên Hợp Quốc lần này còn là tranh thủ các nguồn lực và cơ hội cho phát triển, thúc đẩy việc thực hiện các sáng kiến, kế hoạch và ưu tiên hành động của Liên Hợp Quốc ở cấp độ quốc gia và khu vực.
    Việt Nam và Liên hợp quốc vừa ký Kế hoạch Chiến lược chung mới (OSP) cho giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2021 giữa Chính phủ Việt Nam và 18 cơ quan Liên hợp quốc. Kế hoạch OSP được xây dựng phù hợp với Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 của Việt Nam, các mục tiêu SDGs , cũng như các cam kết quốc tế của Việt Nam về quyền con người. Việc thực hiện tốt các sáng kiến này sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng bao trùm hơn trong tương lai, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam tại Liên hợp quốc cũng như trên trường quốc tế.
    Chuyến công tác lần này còn là cơ hội để Việt Nam quảng bá những thành tựu trong phát triển kinh tế, phát triển con người hướng đến mục tiêu bao trùm và bền vững; là dịp để Việt Nam chia sẻ và đề xuất các sáng kiến chính sách trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người phù hợp với bối cảnh phát triển của từng quốc gia; quyền của nhóm dễ bị tổn thương, quyền của người lao động khuyết tật, vấn đề lao động trẻ em, buôn bán phụ nữ, và vấn đề biến đổi khí hậu…
    Đặc biệt, Việt Nam đến với kỳ họp năm nay với một vinh dự và cùng với đó là trách nhiệm hết sức to lớn là ứng cử viên không chỉ của ASEAN mà còn của cả Nhóm châu Á-Thái Bình Dương gồm 54 nước vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.
     Việt Nam đã có vinh dự gánh vác trọng trách này trong nhiệm kỳ 2008-2009 và đã có những đóng góp quan trọng được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Với kinh nghiệm đã đúc kết được, với tinh thần hợp tác tích cực và chân thành và sự ủng hộ của các nước thành viên Liên hợp quốc, chúng ta tự tin sẽ đảm đương và hoàn thành tốt trọng trách tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021, tiếp tục đóng góp lớn hơn vào hòa bình, phát triển và thịnh vượng trên thế giới.
    Ngay trong những ngày này, ở châu Phi xa xôi, những sĩ quan của Quân đội nhân dân Việt Nam đang sát cánh cùng với những người lính đến từ nhiều quốc gia  trong một sứ mệnh thiêng liêng, cao cả mà Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế trao cho họ - “Sứ mệnh gìn giữ hòa bình”.
    Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” đội chiếc mũ nồi xanh của lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là một biểu tượng mà Việt Nam muốn gửi tới bạn bè quốc tế. Đó là truyền thống, đạo lý yêu chuộng hòa bình của con người và đất nước Việt Nam. Đó là một Việt Nam sẵn sàng chung tay, góp sức vì một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại.
    Xin trân trọng cảm ơn Thủ tướng!

    Chủ tịch WEF ca ngợi thành tựu kinh tế của Việt Nam

    VOV.VN - Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) - Borge Brende đánh giá cao tăng trưởng kinh tế và thành tựu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam.
    Phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh Việt Nam (VBS 2018) diễn ra tại Hà Nội chiều nay (13/9), Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) - Borge Brende cho rằng, Việt Nam đã chứng kiến một sự tăng trưởng kinh tế tuyệt vời, và sự thành công của Việt Nam tiếp tục phát triển vững chắc.
    Chủ tịch WEF đánh giá cao tăng trưởng GDP của Việt Nam trong những năm gần đây, đồng thời bày tỏ ấn tượng trước sự gia tăng về giá trị của thị trường chứng khoán, lạm phát thấp và ổn định, thương mại phát triển nhanh, FDI tăng...
    chu tich wef ca ngoi thanh tuu kinh te cua viet nam hinh 1
    Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) - Borge Brende (Ảnh: Reuters)
    Đặc biệt, ông Borge Brende nêu bật thành tựu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam với tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh từ khoảng 50% vào năm 1990 xuống chỉ dưới 3% vào thời điểm hiện tại.
    Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới nhấn mạnh, Việt Nam đã chứng minh cho thế giới thấy rằng có thể đẩy lùi đói nghèo với những chính sách phù hợp. Bản thân Việt Nam không "ngủ quên" trong chiến thắng và không tự mãn, hơn thế nữa còn tiếp tục cải cách để đảm bảo có thể tiếp tục tăng trưởng trong tương lai.
    Trong bài phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) 2018 đã rất thành công, tạo nên hình ảnh đẹp trong cộng đồng quốc tế về sự hợp tác hiệu quả giữa WEF và Việt Nam cũng như các nước ASEAN.
    chu tich wef ca ngoi thanh tuu kinh te cua viet nam hinh 2
    Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (giữa) tham dự Hội nghị VBS 2018. (Ảnh: TTXVN)
    Thủ tướng cũng đánh giá, Việt Nam đã tham gia khá rộng vào nhiều chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng xét về độ sâu thì còn nhiều việc phải làm khi tỷ trọng giá trị gia tăng của Việt Nam trong chuỗi cung ứng thế giới chưa tương xứng với tiềm năng.
    Trước thực trạng đó, Thủ tướng cho biết, Việt Nam đặt mục tiêu nâng cấp và dịch chuyển lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thủ tướng cũng bày tỏ mong muốn các tập đoàn quốc tế tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, đặt niềm tin nhiều hơn vào doanh nghiệp Việt Nam.
    Lãnh đạo cao nhất của Chính phủ Việt Nam khẳng định, chủ nghĩa bảo hộ và chiến tranh thương mại đang đe dọa các thể chế thương mại song phương lẫn đa phương. Tuy nhiên, Việt Nam luôn nhất quán đề cao lợi ích của thương mại tự do, toàn cầu hóa. Đây là xu hướng chính để phát triển và Việt Nam đang đi theo hướng này./.
    PV/VOV.VN

    Nhân rộng công thức thành công của các nền kinh tế như Việt Nam có thể đóng góp 11.000 tỷ USD cho kinh tế thế giới

    12-09-2018 - 17:04 PM 
    Nhân rộng công thức thành công của các nền kinh tế như Việt Nam có thể đóng góp 11.000 tỷ USD cho kinh tế thế giới

    Trong phân tích về 71 nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam được xếp vào nhóm 18 nền kinh tế "vượt trội hơn" và nếu nhân rộng công thức thành công này, đến năm 2030, kinh tế thế giới có thể có thêm 11.000 tỷ USD.

    • Kinh tế Việt Nam đạt hiệu quả vượt trội
    Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho ASEAN đang diễn ra tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Toàn cầu McKinsey (MGI) đã công bố báo cáo "Hiệu quả vượt trội: Các nền kinh tế mới nổi với sức tăng trưởng cao và những doanh nghiệp hậu thuẫn", trong đó nhấn mạnh Việt Nam là một trong 18 nền kinh tế có "hiệu quả vượt trội hơn" so với các nền kinh tế còn lại.
    Cụ thể, báo cáo của MGI nhấn mạnh 7 nền kinh tế đã tăng trưởng GDP bình quân đầu người hơn 3,5% trong vòng 50 năm từ 1965 đến 2016, bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Malaysia, Singpore, Hàn Quốc và Thái Lan. 11 nền kinh tế còn lại có tốc độ tăng trưởng "đạt hiệu quả vượt trội hơn" gồm Azerbaijan, Belarus, Campuchia, Ethiopia, Ấn Độ, Kazakhstan, Lào, Myanmar, Turkmenistan, Uzbekistan và Việt Nam, với mức 5%/năm trong khoảng thời gian ngắn hơn 20 năm từ 1996 đến 2016.
    Báo cáo cũng nêu rõ, dù có những khác biệt về tính chất và chính sách của các nền kinh tế nhưng 18 nền kinh tế được đánh giá là vượt trội hơn vẫn chia sẻ những tương đồng ở hai yếu tố cơ bản. Một trong số đó là việc duy trì các chính sách hỗ trợ tăng trưởng với mục tiêu hình thành một vòng tuần hoàn hiệu quả về năng suất, thu nhập và nhu cầu, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đảm bảo sự ổn định, thúc đẩy cạnh tranh và sáng tạo đổi mới.
    Điểm tương đồng còn lại là vai trò trọng yếu của các doanh nghiệp lớn trong việc thúc đẩy năng suất và sự tăng trưởng dù vẫn còn bị đánh giá thấp.
    Ông Jonathan Woetzel, Giám đốc Viện Toàn cầu McKinsey kiêm Giám đốc Hợp danh Cao cấp văn phòng McKinsey & Company Thượng Hải, một trong các tác giả báo cáo cho biết báo cáo nêu ra những bài học quý giá cho các nước đồng thời nhấn mạnh vai trò then chốt của doanh nghiệp với các nền kinh tế.
    Ngoài ra, báo cáo của McKensey cũng nhấn mạnh, việc nhân rộng công thức thành công của các nền kinh tế vượt trội hơn, trong đó có Việt Nam, cho tất cả các nền kinh tế mới nổi khác có thể đóng góp thêm 11 nghìn tỷ USD cho kinh tế thế giới đến năm 2030, tức là tăng 10% tương đương với quy mô của nền kinh tế Trung Quốc.
    "8 nghìn tỷ USD có thể được đóng góp trực tiếp từ các nền kinh tế chưa khởi sắc hiện nay, với điều kiện các nền kinh tế này đạt được mức tăng trưởng năng suất tương đương các nước vượt trội hơn. Với sự thúc đẩy năng suất từ các quốc gia này, các nền kinh tế mới nổi có thể tiếp tục đóng góp hơn hai phần ba tăng trưởng toàn cầu vào năm 2030", báo cáo cho biết.
    Nhân rộng công thức thành công của các nền kinh tế như Việt Nam có thể đóng góp 11.000 tỷ USD cho kinh tế thế giới - Ảnh 1.
    Đưa một tỷ người thoát nghèo
    18 nền kinh tế vượt trội được nhận diện trong báo cáo này đã giúp khoảng một tỷ người thoát khỏi tình trạng nghèo cùng cực kể từ năm 1990, góp phần đạt mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Tại tổng số 71 quốc gia, số người sống trong cảnh nghèo cùng cực đã giảm từ 1,7 tỷ người xuống 580 triệu người trong giai đoạn 1990 -2013. Trong đó, 18 nền kinh tế vượt trội hơn đã đóng góp gần 95% cho sự thay đổi đáng kể đó, dẫn đầu là Trung Quốc (với khoảng 730 triệu người thoát cảnh nghèo cùng cực), Ấn Độ (170 triệu người) và Indonesia (80 triệu người).
    Nền kinh tế ngày càng thịnh vượng tại các quốc gia này cũng tạo nên một làn sóng mới của tầng lớp trung lưu và nhà giàu với đủ điều kiện tài chính để tiết kiệm và tiêu dùng. Các nền kinh tế vượt trội hơn chiếm khoảng một nửa mức tăng trưởng chi tiêu cho hộ gia đình của tất cả các nền kinh tế mới nổi gộp lại trong vòng 20 năm qua.
     "Các nền kinh tế vượt trội hơn trong một khoảng thời gian dài đã đạt được tốc độ tăng trưởng ổn định và không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào năm 1997, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và các cú sốc kinh tế vĩ mô khác. Tốc độ ổn định này cùng với các chính sách hỗ trợ tăng trưởng toàn diện đã giúp tầng lớp trung lưu phát triển và gia tăng đáng kể", bà Anu Madgavkar, Giám đốc của Viện Toàn Cầu McKinsey tại Mumbai cho biết.
    Làn sóng tiếp theo của các nền kinh tế vượt trội hơn
    Báo cáo ghi nhận rằng làn sóng tăng trưởng toàn cầu tiếp theo có thể được dẫn đầu bởi một nhóm các thị trường mới nổi vượt trội. Một mặt, các thị trường này có thể thực hiện thành công nghị trình hỗ trợ tăng trưởng trong khi tiếp tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp lớn tăng năng suất hoạt động. Mặt khác, các thị trường này có khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của bối cảnh toàn cầu.
    Công nghiệp sản xuất tại các nước đang phát triển có vẻ như đang đạt đến mức cao điểm nhanh hơn so với trước đây. Ví dụ, tự động hóa đang trở nên ngày càng phổ biến và dòng chảy thương mại xuyên biên giới đã mất đi ít nhiều động lực kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Các nền kinh tế mũi nhọn mới có thể sẽ nổi lên và tạo ra được nhiều cơ hội.
    Đơn cử, việc Trung Quốc dần chuyển hướng từ một nền sản xuất thâm dụng lao động sang sản xuất dựa trên nghiên cứu và phát triển chuyên sâu đang tạo cơ hội cho Ấn Độ, Việt Nam và các nền kinh tế mới nổi khác, đặc biệt cho hàng hóa sản xuất tại các nước có thu nhập thấp như Indonesia và Uzbekistan.
    Nhìn chung, tỷ trọng thương mại hàng hóa giữa các thị trường mới nổi, giữa các nước đang phát triển với nhau và giữa Trung Quốc với các nước đang phát triển, đã tăng từ 8% năm 1995 lên 20% năm 2016. Ngay cả những số liệu dự báo khiêm tốn nhất cũng cho thấy, các nền kinh tế mới nổi sẽ chiếm xấp xỉ 50% tăng trưởng toàn cầu vào năm 2030, và con số này có thể tăng lên 72% nếu các nước này có thể nâng cao năng suất. Động lực tăng trưởng mạnh mẽ đó sẽ tiếp tục thúc đẩy cơ hội cho hợp tác thương mại giữa các nước đang phát triển.
    Báo cáo cũng chỉ ra một số quốc gia bao gồm Bangladesh, Philippines, Rwanda và Sri Lanka có khả năng tạo nên một làn sóng các nền kinh tế vượt trội trong tương lai nếu các quốc gia này tiếp tục thiết lập được các yếu tố căn bản hỗ trợ nền kinh tế và duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh mà họ đã đạt được trong thời gian gần đây.
    Linh Anh
    Theo Trí thức trẻ

    Thành tựu của ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong Trụ cột Cộng đồng kinh tế của ASEAN

    06/09/2018

    Năm 2018 là thời điểm kỷ niệm 11 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), 20 năm gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đồng thời cũng đặt dấu mốc kỷ niệm 23 năm Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và 51 năm tổ chức này được thành lập, không ngừng hợp tác, phát triển để hình thành nên Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã có bài viết quan trọng nhân các sự kiện này. Chuyên đề Kinh tế Việt Nam (Báo Công Thương) trân trọng giới thiệu bài viết của Bộ trưởng.  

    thanh tuu cua asean va su tham gia cua viet nam trong tru cot cong dong kinh te cua asean
    ASEAN được thành lập vào ngày 08 tháng 8 năm 1967 tại Băng-cốc với mục tiêu tập hợp lực lượng chính trị nhằm xây dựng, duy trì hợp tác phát triển kinh tế, chia sẻ thịnh vượng chung và đảm bảo hòa bình, ổn định trong vấn đề an ninh và của nền kinh tế khu vực Đông Nam Á. Theo đó, ASEAN được sáng lập bởi 5 nước là: In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po và Thái Lan thông qua việc ký kết Tuyên bố ASEAN. Sau đó, trong quá trình mở rộng của ASEAN, Bru-nây gia nhập ngày 08/01/1984, Việt Nam ngày 28/7/1995, Lào và Mi-an-ma ngày 23/7/1997 và Cam-pu-chia ngày 30/4/1999.
    Sau 51 năm thành lập, hợp tác và không ngừng phát triển, ASEAN hiện bao gồm 10 thành viên trong khu vực Đông Nam Á, một thị trường đứng thứ 3 Châu Á với hơn 650 nghìn dân, chiếm 8,59% tổng dân số thế giới, GDP bình quân đầu người đạt 4.305 đô-la Mỹ, dự kiến con số này sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 đưa ASEAN thành cộng đồng kinh tế đứng thứ 7 trên thế giới, với tổng GDP là 2.766 tỷ đô-la Mỹ.
    Qua hơn 50 năm kiên trì hợp tác và phát triển, ngoài các trụ cột hợp tác về An ninh - Chính trị, Văn hóa - Xã hội, ASEAN cũng đã và đang tập trung vào hợp tác kinh tế thông qua việc thành lập Cộng đồng Kinh tế, coi đây là một trong ba trụ cột quan trọng nhất, nhằm hỗ trợ nhau cùng phát triển; xây dựng một cộng đồng ASEAN vững mạnh về kinh tế; lành mạnh, đa màu sắc về văn hóa và ổn định về an ninh, chính trị; phồn thịnh về an sinh xã hội, dù còn có sự khác biệt về tôn giáo về trình độ phát triển, về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin v.v., song 10 nước ASEAN đã coi nhau như anh em một nhà, để hỗ trợ, giúp đỡ và cùng nhau phát triển về mọi mặt. Sự phát triển và hợp tác vững chắc của ASEAN đã góp một phần không nhỏ vào thành tựu chung của thế giới trong thiên niên kỷ mới nói chung, nâng cao vị thế của các nước ASEAN trên trường quốc tế nói riêng, cũng như tạo tiền đề cho các khu vực khác đẩy mạnh hợp tác, coi ASEAN như “người tìm đường” (pathfinder) trong quá trình đẩy mạnh hợp tác và liên kết kinh tế khu vực. Ngoài hợp tác nội khối, ASEAN cũng tăng cường liên kết, hợp tác với nhiều đối tác ngoại khối quan trọng như ASEAN+3, ASEAN+6 v.v. trong nhiều lĩnh vực về cơ sở hạ tầng, thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, công nghệ 4.0, chuỗi giá trị và tăng cường kết nối toàn diện về thể chế, hạ tầng và con người.
    Một số thành tựu quan trọng trong trụ cột hợp tác kinh tế mà ASEAN đã đạt được trong những năm qua có thể kể đến như:
    Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với các nước ASEAN-6 (5 nước sáng lập và Bru-nây), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng thuế của các nước gia nhập sau là Cam-pu-chia, Lào, My-an-ma và Việt Nam (gọi tắt là các nước CMLV) đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Dự kiến, tới hết năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan trong toàn ASEAN sẽ đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp như dự án thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa v.v... Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-điện tử, cao su, thực phẩm chế biến sẵn, dược phẩm và thiết bị y tế v.v. Ngoài ra, Việt Nam và các nước ASEAN đã thực thi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) về điện và điện tử, về kiểm tra thông lệ sản xuất thuốc tốt; đã ký MRA về nghiên cứu tương đương sinh học, về hệ thống giám định và chứng nhận an toàn thực phẩm đối với thực phẩm đã qua chế biến nhằm tạo nên một khu vực sản xuất thống nhất trong ASEAN,
    Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên quan trọng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được đàm phán nhằm tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Hiện nay, các nước ASEAN đang đặt mục tiêu sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết Nghị định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) trong năm 2018.
    Về đầu tư, trước bối cảnh các khu vực cũng như các nước ASEAN ngày càng phải chịu sức cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, ngày 15/12/1995 tại Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 5 của ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - gọi tắt là AIA), nhằm tăng cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ASEAN, nơi có nguồn lao động trẻ, rẻ và dồi dào. Sau nhiều nỗ lực thực thi Khu vực đầu tư ASEAN và Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các nước ASEAN đã hoàn tất việc ký kết Nghị định thư thứ hai sửa đổi ACIA và tiến tới sớm hoàn thành ký kết Nghị định thư thứ ba sửa đổi Hiệp định này để tăng cường luồng đầu tư trong khu vực Đông Nam Á.
    thanh tuu cua asean va su tham gia cua viet nam trong tru cot cong dong kinh te cua asean
    Về hợp tác ngoại khối, cho tới nay, ASEAN đã ký kết và thực hiện 6 hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm: FTA nội khối ASEAN (AFTA); và 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân. Vào tháng 11 năm 2017, bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN 31, các nước ASEAN cũng đã ký kết Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Hồng Công, Trung Quốc và Hiệp định đầu tư ASEAN-Hồng Công, Trung Quốc. Ngoài ra, hiện tại các nước thành viên ASEAN cũng đang đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân nhằm đạt được một hiệp định FTA toàn diện với mức độ cam kết cao hơn các FTA hiện nay giữa ASEAN với các nước đối tác này.
    Về thành tựu phát triển kinh tế, trong hơn 50 năm qua, tổng thương mại hàng hóa của các nước ASEAN với thế giới đã tăng từ 10 tỷ đô-la Mỹ/năm lên mức 2.575 tỷ đô-la Mỹ vào năm 2017. Tổng thương mại dịch vụ tăng từ mức 140 tỷ đô-la Mỹ năm 1999 lên mức kỷ lục 681 tỷ đô-la Mỹ năm 2016. Theo số liệu thống kê sơ bộ, thương mại hàng hóa của ASEAN năm 2017 tăng ở mức 14.2% so với năm trước, cao hơn mức tăng trưởng 11,6% của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó, Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của ASEAN với tổng giá trị kim ngạch thương mại hàng hóa đạt 436,8 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 17,1%.
    ASEAN đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài, với dòng vốn FDI năm 2017 đạt 137 tỷ đô-la Mỹ, tăng mạnh so với mức 22 tỷ đô-la Mỹ năm 2000 và 1/3 tỷ đô-la Mỹ năm 1967. Đầu tư nội khối ASEAN cũng tăng từ mức 5,6% lên 24,7% năm 2016. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thu hút FDI lớn nhất vào ASEAN, tăng từ 50,8% năm 1999 lên 80,8% năm 2016, tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và nông nghiệp.
    Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN chủ yếu có nguồn gốc từ các nước đối thoại như Liên minh châu Âu (EU) tăng 46% lên 30,5 tỷ đô-la Mỹ, Nhật Bản tăng từ 7,9 tỷ đô-la Mỹ năm 2015 lên 23,8 tỷ đô-la Mỹ năm 2016, Trung Quốc tăng 44% lên 9,2 tỷ đô-la Mỹ, Hàn Quốc tăng 3% lên 6 tỷ đô-la Mỹ và Ốt-xtrây-lia tăng 77% lên 3,4 tỷ đô-la Mỹ. Trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm đến lĩnh vực chế tạo công nghiệp với mức 23,8 tỷ đô-la Mỹ, các nhà đầu tư FDI của Trung Quốc tập trung vào tài chính, bán buôn và bán lẻ, vận tải và bất động sản, các nhà đầu tư Ốt-xtrây-lia, EU và Hoa Kỳ quan tâm đến dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ tài chính. Đầu tư nội khối cũng tăng lên mức kỷ lục là 24 tỷ đô-la Mỹ năm 2016, chiếm ¼ dòng vốn FDI vào khu vực
    So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996 cho đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng xấp xỉ 7,7 lần, từ 5,91 tỷ đô la Mỹ năm 1996 lên 45,23 tỷ đô la Mỹ tại thời điểm tháng 11 năm 2017, trong đó xuất khẩu hàng hóa của ta vào ASEAN tăng gần 12,4 lần, từ 1,6 tỷ đô la Mỹ năm 1996 lên 19,9 tỷ đô la Mỹ. Tính tới hết tháng 6 năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ đô la Mỹ, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 12,2 tỷ đô la Mỹ và kim ngạch nhập khẩu là 15,9 tỷ đô la Mỹ.
    Tính đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 98%. Như vậy, trong số 10 FTA mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội khối ASEAN (AFTA) có tỷ lệ xoá bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ trình thực hiện là 19 năm (cá biệt, một số ít mặt hàng có lộ trình là 25 năm).
    Năm 2018, Xinh-ga-po là nước Chủ tịch ASEAN đã đề ra ưu tiên trong hợp tác ASEAN gồm: i) Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử và hội nhập số; ii) Thành lập mạng lưới sáng tạo ASEAN; iii) Đưa vào vận hành cơ chế tự chứng nhận xuất xứ toàn ASEAN và cơ chế một cửa ASEAN; iv) Ký kết Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN; v) Tăng cường hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN; vi) Tuyên bố ASEAN về du lịch hành trình trên biển; vii) Tăng cường hợp tác và thương mại về khí tự nhiên hoá lỏng trong ASEAN; viii) Ký Biên bản ghi nhớ với Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế; ix) Xây dựng Quy tắc ứng xử về xây dựng xanh của ASEAN; và x) Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ đối ngoại của ASEAN.
    Để thực hiện các mục tiêu trên của ASEAN trong năm 2018 và cũng nhằm chuẩn bị cho năm 2020 khi Việt Nam là nước Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN khác triển khai Kế hoạch Hành động Chiến lược AEC 2025 (SAP); thống nhất các nội dung còn vướng mắc trên cơ sở đảm bảo Hiệp định RCEP mang lại kết quả cân bằng về lợi ích, có tính đến sự chênh lệch về trình độ phát triển của tất cả các nước và đề nghị các nước đối tác của ASEAN điều chỉnh tham vọng xuống mức khả thi cho tất cả các bên nhằm kết thúc đàm phán hiệp định này trong năm 2018; phối hợp với các nước ASEAN tiếp tục rà soát, thực thi cam kết trong các FTA ASEAN+1, trong đó có việc rà soát Hiệp định AANZFTA giai đoạn hai và tích cực thực hiện các chương trình làm việc/hợp tác với các đối tác khác của ASEAN. Trong năm 2018, Việt Nam cũng sẽ đảm nhiệm vai trò chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế CLMV lần thứ 10 được tổ chức bên lề Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN tại Xinh-ga-po.
    Theo số liệu của Bộ Công Thương, trong thời điểm 6 tháng đầu năm 2018, mức độ tận dụng C/O ưu đãi trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đối với các FTA ASEAN và ASEAN cộng ở mức độ trung bình với Trung Quốc (23%), Nhật Bản (29%), mức độ khá với Ôt-xtrây-lia- Niu Di-lân (30%), ASEAN (33%), Hàn Quốc (33%) và ở mức độ tốt với Ấn Độ (44%). Về phía doanh nghiệp của ta, các doanh nghiệp FDI và các tập đoàn lớn có xu hướng vận dụng ưu đãi tốt hơn doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét từ góc độ ngành, các ngành dệt may, da giày, cơ khí, nông sản chế biến vận dụng ưu đãi tương đối tốt để xuất khẩu.
    Quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam đã được triển khai hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, để tận dụng tốt các cơ hội của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025 và đảm bảo ta có thể hội nhập một cách chủ động, tích cực và phù hợp với lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình cạnh khu vực và quốc tế, khai thác tốt hơn các ưu đãi trong các FTA trong khuôn khổ ASEAN; các doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia các FTA. Các Bộ, ngành trong hội nhập kinh tế ASEAN cần nâng cao hiệu quả công tác điều phối, phối hợp; cải tiến cơ chế tham gia các cuộc họp cấp kỹ thuật trong ASEAN để tiết kiệm nguồn lực và ngân sách; cũng như xác định chủ trương về vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt trong đàm phán các FTA trong giai đoạn từ năm 2018 trở đi.