Friday, December 28, 2018

Thành tựu kinh tế 2018 và dấu ấn chỉ đạo, điều hành của Chính phủ

Thứ Sáu, 28/12/2018 13:58 GMT+7
Năm 2018, VIệt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực, toàn diện, đặc biệt trong phát triển kinh tế. Kết quả này ghi đậm dấu ấn chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Đây là khẳng định của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tại Hội nghị toàn quốc Chính phủ với các địa phương khai mạc sáng 28/12 trong báo cáo kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2018.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tại Hội nghị toàn quốc Chính phủ với các địa phương.

Nêu cao tinh thần cầu thị, lắng nghe

Theo Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, ngay từ ngày 1/1/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 với 9 nhóm giải pháp trọng tâm, 59 giải pháp và 242 nhiệm vụ cụ thể.

Chính phủ cũng đã chủ động xây dựng kịch bản, hệ thống chỉ tiêu, giải pháp tăng trưởng của từng ngành, từng lĩnh vực; thường xuyên theo dõi, đánh giá, nhận diện rõ thời cơ, thách thức để có đối sách, giải pháp phù hợp.

Việc điều hành đồng bộ các chính sách vĩ mô, kết hợp hài hòa chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng với chính sách tài khóa chặt chẽ, kỷ luật, kỷ cương… đã góp phần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và kết quả nổi bật là GDP năm 2018 đạt 7,08%; năm thứ 2 liên tiếp vượt và đạt tất cả 12 chỉ tiêu của Quốc hội đề ra.

Cũng theo Phó Thủ tướng, trong năm 2018, Chính phủ đã tổ chức 15 hội nghị chuyên đề với tinh thần cầu thị, lắng nghe. Lãnh đạo Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, đề ra các quyết sách, giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng lĩnh vực; đồng thời giải quyết những vấn đề phát sinh nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm.

Lãnh đạo Chính phủ cũng chủ trì, chỉ đạo gần 800 cuộc họp, thực hiện 70 chuyến công tác, làm việc với địa phương, tham dự và chỉ đạo xúc tiến đầu tư tại 20 tỉnh, thành phố, trực tiếp thị sát tình hình, giải quyết gần 400 kiến nghị, tháo gỡ khó khăn cho địa phương.

Đặc biệt, lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ đã đối thoại với hơn 600 nông dân tiêu biểu, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết của Trung ương về tam nông, sơ kết 5 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Cũng trong năm 2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo xử lý 12 dự án thua lỗ, yếu kém ngành Công Thương; thực hiện các giải pháp đồng bộ tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư xây dựng, rút ngắn thời gian cấp phép xây dựng và các thủ tục hành chính liên quan; có các giải pháp tổng thể thúc đẩy phát triển ổn định thị trường bất động sản gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là các chương trình nhà ở xã hội.

2018: Năm giảm chi phí cho DN

Theo Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, năm 2018, Chính phủ tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật để thu hút nguồn lực đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ; ban hành cơ sở pháp lý thúc đẩy phát triển toàn diện hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam năm 2018 tăng 2 bậc so với năm 2017, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.

Phó Thủ tướng cho biết, tiếp tục xác định năm 2018 là năm giảm chi phí cho DN, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho DN; chỉ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) và triển khai thi hành Luật Hỗ trợ DNNVV.

Đồng thời, Chính phủ đổi mới cơ chế quản lý vốn và tài sản Nhà nước, thành lập Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại DN; nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.

Chính phủ cũng giám sát chặt chẽ công tác bảo vệ môi trường đối với các dự án, cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; chấn chỉnh việc cấp phép khai thác tài nguyên, khoáng sản, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm. Tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.

Theo Phó Thủ tướng, thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Chính phủ chỉ đạo kiên quyết điều tra phát hiện, xử lý nghiêm các vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng. Hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống tham nhũng; tăng cường thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm; tập trung thanh tra một số lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tham nhũng, những dự án thua lỗ, dư luận xã hội quan tâm.

Về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, Phó Thủ tướng cho biết, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý nhằm nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn vay nước ngoài, quản lý, sử dụng hiệu quả vốn ODA và vốn vay ưu đãi theo hướng bền vững.

Chính phủ cũng phê duyệt định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn 2021 - 2025 để sử dụng hiệu quả và phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Trong năm 2018, Chính phủ cũng đã trình Quốc hội phê chuẩn Hiệp định CPTPP, khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
H.Anh

Việt Nam lập kỳ tích nhưng 'đang tụt lại đằng sau các nước ASEAN'

28/12/2018  03:00 GMT+7

Ít ngày nữa, năm 2018 sẽ khép lại, đánh dấu một năm Việt Nam đã vượt khó thành công để gặt hái nhiều thành quả về tăng trưởng GDP, doanh nghiệp khai sinh, xuất nhập khẩu...
Ngày 28/12, Chính phủ cũng tổ chức Hội nghị trực tuyến với các địa phương. Nhìn lại để bước tiếp là điều quan trọng, khi mà năm 2019 được dự báo cũng còn lắm chông gai.
Những gam màu sáng rực
Tăng trưởng GDP cả năm 2018 tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở lại đây. Phải mất một thập kỷ, nền kinh tế mới có lần quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng ấn tượng đến như vậy sau bao nẳm ròng trồi sụt.
Việt Nam lập kỳ tích nhưng 'đang tụt lại đằng sau các nước ASEAN'
Tăng trưởng GDP đạt con số rất tích cực.
Thiên tai lũ lụt, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy... là những trở ngại chính trên con đường phát triển kinh tế xã hội của năm 2018. Dẫu vậy, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018 ước tính đạt 244,7 tỷ USD, tăng tới 13,8% so với năm 2017 (vượt mục tiêu Quốc hội đề ra là tăng 7%-8% và Nghị quyết 01 của Chính phủ là tăng 8%-10%).
Điểm nhấn trong bức tranh xuất nhập khẩu ấy, đó là năm 2018, Việt Nam xuất siêu tới  7,2 tỷ USD, đây là năm có giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay.
Năm 2018, số doanh nghiệp "khai sinh" cũng lập kỷ lục mới khi có tới 131.275 doanh nghiệp ra đời, tổng vốn đăng ký là 1,4 triệu tỷ đồng. 
Vượt lên tất cả những khó khăn, kinh tế Việt Nam đã cán đích với mức tăng trưởng GDP vượt mục tiêu đặt ra từ đầu năm (mục tiêu là 6,7%).
Kết quả ấy có được cũng một phần nhờ nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Kể từ 2014 đến nay, Nghị quyết số 19 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đã trải qua 5 năm thực hiện. Từ chỗ mơ hồ, chần chừ, nay Nghị quyết 19 đã trở thành thước đo bắt buộc của các bộ ngành, địa phương phải dõi theo và thực hiện.
“Trái ngọt” đã bắt đầu xuất hiện. Chỉ số Nộp thuế và Bảo hiểm xã hội qua 5 năm cải thiện 42 bậc (từ vị trí 173 năm 2014 lên vị trí 131 năm 2018).
Chỉ số Tiếp cận điện năng với vai trò của Tập đoàn Điện lực Việt Nam qua 5 năm đã cải thiện được 108 bậc. Trong khi 5 năm trước đó, chỉ số này có xuất phát điểm đáng buồn khi ở vị trí cuối bảng xếp hạng trên thế giới (thứ 135/189 năm 2014). Đến nay chỉ số này đã có cú lội ngược dòng ngoạn mục, vươn lên thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về chỉ số này (thứ 37/190 năm 2018).
Sau 5 năm thực hiện, 6/10 chỉ số môi trường kinh doanh của nước ta năm 2018 cải thiện so với năm 2014, cụ thể là các chỉ số về Tiếp cận điện năng (tăng 108 bậc), Nộp thuế và Bảo hiểm xã hội (tăng 42 bậc), Bảo vệ nhà đầu tư (tăng 28 bậc), Khởi sự kinh doanh (tăng 21 bậc), Tiếp cận tín dụng (tăng 4 bậc), Cấp phép xây dựng (tăng 1 bậc).
Đó là những chỉ số không phải do ta tự đánh giá, mà chính là Ngân hàng Thế giới dùng các thước đo của chính họ để “cân đo” rồi cho điểm.
Theo Báo cáo của Ngân hàng thế giới (Doing Business 2019), cùng với Indonesia, Việt Nam là nước thực hiện nhiều cải cách nhất trong 16 năm qua, trong đó mỗi nước cùng có 42 cải cách. Trong đó, chỉ riêng 5 năm từ khi thực hiện Nghị quyết 19, Việt Nam đã có 18 cải cách được ghi nhận.
Nhưng còn quá sớm để hân hoan
Con số tăng trưởng GDP 7,08% có thể khiến nhiều người vui mừng. Nhưng con số ấy vẫn không thể làm nhòa đi nguy cơ tụt hậu của kinh tế Việt Nam vẫn còn hiện hữu.
Thực tế, GDP bình quân đầu người năm 2018 của Việt Nam đạt khoảng 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017, nhưng còn ở mức thấp so với các nước khu vực (như Malaysia 9.994 USD, Thái Lan 6.593 USD năm 2017 theo giá hiện hành).
Việt Nam lập kỳ tích nhưng 'đang tụt lại đằng sau các nước ASEAN'
Kinh tế Việt Nam còn phải nỗ lực nhiều để vươn lên tầm cao mới.
Tại Diễn đàn thường niên về Cải cách và Phát triển Việt Nam (VRDF) lần thứ nhất tổ chức ngày 5/12, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã nhấn mạnh: Nếu không thực hiện đồng thời cải cách và phát triển, chúng ta sẽ ngay lập tức bị tụt hậu so với thời đại.
Trong bối cảnh công nghệ thay đổi mạnh mẽ, phân cực chính trị và sự phục hồi kinh tế mong manh, Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã thay đổi cách thức đánh giá và xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu, chú trọng tới yếu tố thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn và nâng cao thu nhập của người dân. Với cách tiếp cận mới, chỉ số này có tên gọi mới là Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0).
Theo kết quả xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2018, chỉ số Năng lực cạnh tranh 4.0 của Việt Nam giảm 4 bậc (từ 74 xuống vị trí 77). Đáng chú ý là 7/12 trụ cột giảm điểm.
So sánh trong ASEAN, Việt Nam đứng sau hầu hết các nước, chỉ trên Lào và Campuchia. Năm 2018, cũng chỉ có Việt Nam, Lào, Campuchia giảm bậc, các nước ASEAN khác đều tăng bậc, trong đó, Philippines tăng 12 bậc.
Vì lẽ đó, trong báo cáo 5 năm thực hiện Nghị quyết 19, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thẳng thắn đánh giá: Có thể nói Việt Nam đang tụt lại đằng sau các nước ASEAN về năng lực cạnh tranh 4.0. Muốn tiến kịp các nước trong khu vực đòi hỏi phải đẩy nhanh quá trình phát triển theo xu thế 4.0; tập trung hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh; ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi, trong đó có lĩnh vực hành chính công; nâng cao hiệu quả các thị trường (nhất là thị trường hàng hoá hiện đang xếp ở vị trí gần cuối bảng – thứ 102); có cơ chế khuyến khích, thúc đẩy tính sáng tạo, năng động trong kinh doanh thay vì tư duy tạo rào cản để quản lý.
Hà Duy

Thành tựu giảm nghèo

Thứ năm, 20/12/2018
Thông điệp của Tháng “Vì người nghèo” năm 2018 là “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Thực ra, cũng không phải đến năm nay chúng ta mới quan tâm người nghèo mà có thể khẳng định - đây là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước đối với những người có hoàn cảnh khó khăn.

Hướng dẫn kỹ thuật để bà con trồng màu năng suất cao.

Ngay từ khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giải quyết nạn đói là ưu tiên hàng đầu trong 6 nhiệm vụ Chính phủ phải giải quyết, trong đó Người đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Từ đó đến nay, giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước xác định vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu để phát triển bền vững. Giảm nghèo vì thế đã trở thành một chủ trương lớn, một chương trình của quốc gia, giàu tính nhân văn, thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc để quyết tâm thực hiện, vì đó còn là một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ, phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết.
Trong những năm gần đây, mỗi năm ngân sách nhà nước đã dành hàng chục nghìn tỷ đồng đầu tư, hỗ trợ trực tiếp cũng như lồng ghép, thông qua các chương trình, dự án, chính sách cho giảm nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các quốc gia, tổ chức quốc tế cũng dành sự ủng hộ rất to lớn đối với công tác giảm nghèo.
Về phía Chính phủ, để thực hiện nhiệm vụ “Chính phủ kiến tạo”, Chính phủ đã đề ra một số nhóm nhiệm vụ trực tiếp liên quan đến quyền con người như “phát huy quyền làm chủ của nhân dân”, “chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững” và “phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực đời sống; tập trung xây dựng con người”. 
Chính phủ đã tập trung thúc đẩy các chính sách về phát triển bền vững, đặc biệt lồng ghép nội dung phát triển bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 2016-2020.
Với cam kết mạnh mẽ triển khai hiệu quả Chương trình Nghị sự 2030 và các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của LHQ, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia với 17 Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam (VSDGs) và 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện và ưu tiên của quốc gia. Hội đồng Quốc gia về phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh được thành lập với sự tham gia của nhiều cơ quan. Nhiều bộ, ngành, địa phương thành lập Ban Chỉ đạo, Văn phòng Phát triển bền vững. Việt Nam cũng có Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững. 
Trong dịp công bố Báo cáo Quốc gia của Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ hồi đầu tháng 12 với sự tham dự của đại diện các tổ chức quốc tế, báo cáo của Bộ Ngoại giao cho thấy, kể từ lần rà soát trước, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, chương trình về xóa đói nghèo, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng, thúc đẩy nông nghiệp bền vững, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Năm 2016, Chính phủ ban hành Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chiến lược Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011-2020…
Cùng với đó, nỗ lực phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp được thể hiện với việc thông qua Luật Nhà ở 2014, Nghị định 99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, Nghị định 100/2015/NĐ-CP về phát triển và quản lý nhà ở xã hội; Nghị định 101/2015/NĐ-CP về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư; Quyết định 48/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hỗ trợ người nghèo xây dựng nhà ở, phòng chống bão lụt; Quyết định 33/2015/QĐ-TTg về chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo. Tỷ lệ nghèo về thu nhập đã giảm nhanh trong suốt giai đoạn 1998-2016. Tỷ lệ nghèo giảm từ 7% năm 2015 xuống 5,2% năm 2016; tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,88 năm 2015 xuống 9,2% năm 2016 và 8% năm 2017 .
Không chỉ có thế, các chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số đạt được nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35% (năm 2011) xuống còn 16,8% (cuối năm 2015). Năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tiếp cận đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm khoảng 2% so với năm 2015 (cả nước giảm khoảng 1,3% - 1,5%), 98% số người thoát nghèo không bị tái nghèo. Giai đoạn 2014-2016, 38% người dân tộc thiểu số dịch chuyển lên nhóm có điều kiện kinh tế cao hơn (mức chung cả nước là 28%); 42% nhóm dễ tổn thương kinh tế đã chuyển sang nhóm an toàn kinh tế.
Giảm nghèo đa chiều ở Việt Nam được nêu trong Báo cáo do Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) phối hợp với các bộ ngành có liên quan Việt Nam vừa công bố tại Hà Nội hôm 19/12 cũng cho thấy, trong số 17 SDGs mà Việt Nam cam kết đạt được vào năm 2030, SDG1 về giảm nghèo có khả năng đạt được cao nhất. Thành tích về giảm nghèo đã giúp Việt Nam đứng thứ 57 trong tổng số 193 nước thành viên của LHQ về chỉ số SDG năm 2018, tăng 9 bậc so với xếp hạng năm 2017. Về sự kiện này, bà Caitlin Wiesen, quyền Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam đánh giá tiến bộ Việt Nam đạt được trong giảm nghèo là “thành công ở tầm thế giới”. 
Những con số đã nói lên tất cả. Điều đó cho thấy mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều hướng đến người dân. Đặc biệt hơn, nhóm yếu thế được quan tâm bằng một hệ thống chính sách và giải pháp đồng bộ. Sự vào cuộc của các cấp các ngành trong đó có sự góp sức của hệ thống Mặt trận các cấp và của chính người dân đã giúp công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được thành công. Hay nói cách khác, sức mạnh tổng hợp của cộng đồng, của toàn xã hội được nhân lên, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo, hộ nghèo, tiếp tục vun đắp, phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam.    

Hoàng Mai

Trúng cử thành viên UNCITRAL: Quốc tế ghi nhận thành tựu xây dựng pháp luật của Việt Nam

07:13 - 23/12/2018

(PL+) - Sáng 18/12 theo giờ Việt Nam, tại cuộc bầu cử thuộc khóa họp 73 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc (LHQ) ở New York (Mỹ), Việt Nam đã trúng cử thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) nhiệm kỳ 2019 - 2025 với số phiếu cao.


Một phiên họp trong khuôn khổ khóa họp 73 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc diễn ra tại New York (Mỹ).
Một phiên họp trong khuôn khổ khóa họp 73 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc diễn ra tại New York (Mỹ).
Đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu phát triển của Việt Nam, đặc biệt là trong việc xây dựng hệ thống pháp luật cũng như những nỗ lực, đóng góp của Việt Nam trong các vấn đề cải tổ và phát triển của LHQ.
Hội nhập trên “nôi” luật pháp
Điểm lại lịch sử, Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc.
Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 10 FTA song phương và đa phương với các đối tác trong khu vực và trên thế giới, bao gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và 5 FTA ASEAN +1 (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand; 4 FTA song phương giữa Việt Nam với Nhật Bản (VJEPA), với Hàn Quốc (KVFTA), với Chile (VCFTA) với Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEUFTA).
Việt Nam cũng đã cơ bản kết thúc đàm phán FTA với EU, cùng ASEAN ký FTA với Hong Kong vào tháng 11/2017. Việt Nam cũng đã phê chuẩn tham gia CPTPP. Đến nay, có khoảng 60 nền kinh tế đã và đang đàm phán FTA với Việt Nam, bao gồm các đối tác thương mại chủ chốt nắm giữ khoảng 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam.
Việc thực thi các FTA nói trên đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ tri thức, kinh nghiệm quản lý, tạo thêm nhiều việc làm…
Năm 2018 vừa qua là thời điểm quan trọng trong việc thực thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) và là năm bản lề cho HNKTQT của Việt Nam. Nhằm tiếp tục đẩy mạnh HNKTQT của đất nước, một trong các yêu cầu đặt ta là: Nâng cao nhận thức và năng lực pháp lý, đặc biệt là luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế...
Để HNKTQT, dứt khoát phải khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện luật pháp trực tiếp liên quan, phù hợp với Hiến pháp, tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế; Nội luật hoá theo lộ trình phù hợp với những cam kết, quy định quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ… bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia và thực hiện các FTA thế hệ mới.
Đồng thời, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách phòng vệ thương mại, phòng ngừa và giải quyết tranh chấp quốc tế; có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh thấp vươn lên; Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.
Việc Việt Nam đã trúng cử thành viên UNCITRAL nhiệm kỳ 2019 – 2025 vừa khẳng định vị thế của Việt Nam, vừa nói lên rằng Việt Nam đã tham gia tích cực vào “chế định” luật pháp của HNKTQT.
UNCITRAL – pháp quyền cấp độ quốc tế
UNCITRAL là cơ quan chuyên môn pháp lý của LHQ, được Đại hội đồng LHQ lập ra từ năm 1966 với mục đích và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong thúc đẩy quá trình hài hòa hóa và nhất thể hóa pháp luật thương mại quốc tế, thông qua đó giảm thiểu những rào cản đối với sự phát triển của thương mại quốc tế.
Để mở rộng và tăng cường các cơ hội thương mại toàn cầu, UNCITRAL đưa ra các quy tắc hiện đại, công bằng và hài hoà đối với các giao dịch thương mại. Bao gồm: Các quy ước, luật và quy tắc mẫu được chấp nhận trên toàn thế giới; Các hướng dẫn về luật và pháp lý có ý nghĩa thực tế lớn; Các thông tin cập nhật về các case law và việc ban hành luật thương mại thống nhất; Trợ giúp kĩ thuật cho các dự án cải cách, sử đổi luật; Hội nghị quốc gia và khu vực về vấn đề luật thương mại thống nhất.
Đây là cơ chế quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng các văn kiện pháp lý, thảo luận những vấn đề pháp lý đặt ra trong thương mại quốc tế. Việc Việt Nam trúng cử thành viên UNCITRAL là cơ hội rất quan trọng tham gia đóng góp vào lợi ích chung và đảm bảo lợi ích của mình trong lĩnh vực gắn bó trong cả quá trình HNKTQT của đất nước.
Hiện nay, vấn đề cải tổ hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nhà đầu tư cũng như với Chính phủ, là một vấn đề sát sườn. Luật sư Ngô Khắc Lễ, thành viên Trung tâm Trọng tài VIAC, chuyên gia tư vấn trong tranh chấp hàng hải cho biết: “Quá trình giải quyết tranh chấp thường kéo dài, tốn kém; đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển trong tình trạng đội ngũ luật sư, tri thức về luật còn hạn chế, nguồn tài chính hạn chế… thì làm sao giảm thiểu tranh chấp trong HNKTQT”.
“Khi xảy ra tranh chấp và đưa ra các cơ chế pháp lý quốc tế như trọng tài thương mại hoặc các cơ chế khác thì làm sao phải đảm bảo lợi ích chính đáng công bằng cho cả hai bên”, ông trăn trở…
Sau khi ứng cử vào Ủy ban Luật thương mại quốc tế của LHQ, Việt Nam đã xây dựng nội dung, nghiên cứu kỹ chức năng nhiệm vụ của tổ chức này. Và để trở thành thành viên UNCITRA, Việt Nam đã có quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản dựa trên những kinh nghiệm mà trước đây có được khi tham gia vào nhiều diễn đàn của LHQ.
Việt Nam quyết định ứng cử làm thành viên UNCITRAL xuất phát từ đường lối đối ngoại chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chủ trương đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, vận dụng và tham gia phát triển pháp luật quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, đóng góp vào thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng của Việt Nam, khu vực cũng như toàn thế giới.
Và sự kiện Việt Nam ứng cử thành công, lần đầu tiên trở thành thành viên UNCITRAL thể hiện vị thế, uy tín quốc tế ngày càng cao, mối quan hệ hữu nghị rộng mở của Việt Nam. Đó là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, thương mại cũng như sự đóng góp, nỗ lực tích cực, có trách nhiệm của Việt Nam đối với công việc chung của cộng đồng quốc tế, trong đó có lĩnh vực luật thương mại quốc tế. 
Tiếp theo việc trúng cử vào Ủy ban Luật pháp quốc tế của LHQ (năm 2016), việc trở thành thành viên UNCITRAL đánh dấu bước tiến tiếp theo trong việc chủ động, tích cực hội nhập pháp lý đa phương, chủ động tham gia xây dựng, định hình luật chơi ở cấp độ quốc tế, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.
Bên cạnh đó, vai trò thành UNCITRAL cũng tạo cơ hội cho Việt Nam trong việc tăng cường tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế để hoàn hiện khuôn khổ pháp luật trong nước theo hướng phù hợp với chuẩn mực chung, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, vì mục tiêu phát triển bền vững.
Thách thức đặt ra
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng, trong đó có các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới như CPTTP, đòi hỏi không ngừng hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho tăng cường thương mại quốc tế vì mục tiêu phát triển bền vững.
Với việc trở thành thành viên UNCITRAL, các bộ, ngành, chuyên gia pháp lý của Việt Nam sẽ có điều kiện phát huy hiệu quả hơn nữa các văn kiện và sáng kiến của UNCITRAL trong việc giải quyết các thách thức như: Hoàn thiện pháp luật về thương mại, triển khai các cam kết về tự do hóa thương mại, đầu tư nước ngoài; Bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển xã hội nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững; Đổi mới chính sách, hoàn thiện cơ chế, triển khai các biện pháp đồng bộ và nhất quán  để thu hút đầu tư có chất lượng; Phòng ngừa khiếu nại, tranh chấp và giải quyết thỏa đáng các khiếu nại, tranh chấp thương mại, đầu tư…
Tuy nhiên, trở thành thành viên UNCITRAL cũng là những thách thức, Việt Nam phải chủ động bố trí nhân lực, nguồn lực để tham gia, đặc biệt nhân lực cán bộ, chuyên gia pháp lý, đối ngoại có chuyên môn sâu, có kỹ năng đối ngoại đa phương, có đủ năng lực để tham gia, có đóng góp chất lượng, góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương. 
Các cơ quan, tổ chức đào tạo, nghiên cứu, thực hành pháp luật của Việt Nam cũng cần chủ động để có thể tận dụng tối đa sự hỗ trợ kỹ thuật của UNCITRAL để phổ biến pháp luật về thương mại quốc tế, soạn thảo và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước; cũng như cơ chế, thủ tục giải quyết tranh chấp về thương mại, đầu tư quốc tế bảo đảm phát triển bền vững trong môi trường HNKTQT.
Ngô Võ Phương Thủy

Nâng tầm vị thế quốc gia

Thứ Tư, 19/12/2018, 01:40:50
Việt Nam vừa trúng cử làm thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) nhiệm kỳ 2019 - 2025, tại cuộc bỏ phiếu sáng 18-12, giờ Hà Nội, trong khuôn khổ Khóa họp thứ 73 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, tại New York (Mỹ).
Tỷ lệ phiếu ủng hộ cao (157 trong số 193) dành cho Việt Nam trong lần đầu được bầu vào UNCITRAL là sự ghi nhận những đóng góp tích cực, có trách nhiệm của nước ta trong các công việc chung, đồng thời thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng cao của đất nước.
Giữ vai trò là cơ quan chuyên môn pháp lý của Liên hợp quốc (LHQ), UNCITRAL được Đại hội đồng LHQ thành lập năm 1966 với nhiệm vụ thúc đẩy tiến trình hài hòa và nhất thể hóa pháp luật thương mại quốc tế, qua đó hạn chế các rào cản đối với sự phát triển của thương mại toàn cầu.
Đến nay, UNCITRAL đã hoàn tất khối lượng công việc đồ sộ, với một loạt khuyến nghị, dự thảo công ước quốc tế và nghị quyết trình Đại hội đồng LHQ thông qua, liên quan các vấn đề pháp lý, trọng tài, hòa giải tranh chấp thương mại, đầu tư... Các văn bản luật, hướng dẫn của UNCITRAL là nền tảng cơ bản thúc đẩy thương mại quốc tế, được các quốc gia, các doanh nghiệp, giới đầu tư, luật sư và trọng tài áp dụng trên toàn thế giới.
Với chức năng, nhiệm vụ như vậy, UNCITRAL là một trong những cơ quan quan trọng hàng đầu của LHQ trong lĩnh vực pháp lý; và trở thành thành viên của Ủy ban có ý nghĩa to lớn với các quốc gia. Với Việt Nam, việc lần đầu được bầu vào UNCITRAL càng có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tiếp tục phản ánh mức độ tín nhiệm của cộng đồng quốc tế dành cho nước ta, mà còn đánh dấu thành công mới trong tiến trình hội nhập trong lĩnh vực pháp lý quốc tế, tiếp theo việc đại diện chúng ta trúng cử vào Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) của LHQ năm 2016.
Theo Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung, với tư cách thành viên chính thức của UNCITRAL, Việt Nam có cơ hội tham gia sâu hơn vào công việc của các nhóm công tác thuộc Ủy ban, thảo luận xây dựng và thông qua các khuyến nghị của UNCITRAL. Đây là cơ hội để Việt Nam đóng góp tích cực, chủ động vào các công việc của Ủy ban, nhất là tham gia định hình các quy định và luật thương mại quốc tế ngay từ giai đoạn thảo luận, đàm phán theo hướng phù hợp lợi ích của chúng ta. Điều này hoàn toàn phù hợp và là bước triển khai thành công chủ trương của Đảng, Nhà nước là tăng cường hội nhập quốc tế và hợp tác đa phương trong lĩnh vực pháp lý, nhất là tham gia xây dựng và định hình “luật chơi chung” ở cấp độ quốc tế.
Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia một số Công ước quốc tế, áp dụng nhiều luật mẫu và quy tắc do UNCITRAL xây dựng, qua đó cũng giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta về thương mại. Thực tế, khi chưa là thành viên chính thức của UNCITRAL, Việt Nam đã từng bước tham gia với tư cách quan sát viên, tham dự và đóng góp tích cực tại các phiên họp, thảo luận của một số nhóm công tác của UNCITRAL, nổi bật là hoạt động liên quan giải quyết tranh chấp và cải cách cơ chế. Những nỗ lực của Việt Nam là cơ sở để bạn bè quốc tế tiếp tục dành tín nhiệm cao, bầu chúng ta vào các vị trí quan trọng trong khuôn khổ LHQ, mới nhất là thành viên UNCITRAL, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia, đóng góp nhiều hơn vào các công việc chung.
Trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới hiện nay, Việt Nam tiếp tục ủng hộ và thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư, thông qua việc tham gia đàm phán, ký kết và triển khai hàng loạt hiệp định song phương và đa phương. Nổi bật là thỏa thuận thương mại tự do thế hệ mới nhất mang tên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sắp được triển khai vào cuộc sống. Tiến trình này đặt ra yêu cầu cấp thiết, đồng thời tạo cơ hội để Việt Nam hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho tăng cường thương mại quốc tế.
Việc Việt Nam trong tư cách thành viên UNCITRAL cùng các nước thúc đẩy áp dụng các văn kiện, sáng kiến và khuyến nghị của Ủy ban càng tạo thuận lợi để nước ta hoàn thiện, hài hòa hóa pháp luật quốc gia về thương mại, qua đó giảm rào cản, giải quyết thỏa đáng các tranh chấp và thúc đẩy thương mại quốc tế phục vụ phát triển bền vững, đóng góp cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung.
Việt Nam trúng cử làm thành viên UNCITRAL là bước triển khai đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương; vận dụng và tham gia phát triển pháp luật quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng của nước ta và thế giới. Thành công của lần đầu trúng cử vào UNCITRAL đánh dấu bước tiến lớn trong hội nhập quốc tế, qua đó nâng tầm vị thế quốc gia, đồng thời góp thêm minh chứng sinh động về sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế và hội nhập, cũng như kết quả tham gia, đóng góp tích cực, hiệu quả của Việt Nam trong các nỗ lực chung vì hòa bình và phát triển toàn cầu.
SƠN NINH

Thành tựu xóa đói giảm nghèo - minh chứng sinh động đảm bảo quyền con người của Việt Nam

08:03 11/12/2018
Với những chủ trương đúng đắn, giải pháp toàn diện, đồng bộ nhằm phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng cường an sinh xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Đây chính là cơ sở quan trọng cho Việt Nam đảm bảo các quyền của người dân.
Đói nghèo được xem vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của vi phạm quyền con người, bởi những người đói nghèo hầu như bị hạn chế mọi cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản từ y tế, nước sạch, giáo dục tới việc làm, đồng thời cũng không được hưởng thụ các thành quả của tiến bộ xã hội.
Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là ưu tiên hàng đầu trong đường lối, chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước Việt Nam, nhằm bảo đảm quyền con người và thực hiện các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc. 
Trên tinh thần đó, Nhà nước ta đã và đang triển khai hàng loạt chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh, công bằng xã hội trên cả nước, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo...
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác xóa đói giảm nghèo.
Trong những năm qua, nỗ lực thúc đẩy phát triển bền vững đã đem lại những kết quả tích cực về phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội. Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP 6,68%, 6,21%, 6,81% trong 3 năm 2015, 2016 và 2017.
Riêng năm 2017, đã có 153.307 doanh nghiệp thành lập mới hoặc quay trở lại hoạt động; số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập là 1.161.321. Cũng trong năm 2017, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã hỗ trợ nhân rộng các mô hình giảm nghèo trên cả nước, góp phần tăng thu nhập của hộ nghèo từ 15-20%.
Tỷ lệ nghèo về thu nhập đã giảm nhanh trong suốt giai đoạn từ năm 1998-2016. Tỷ lệ nghèo giảm từ 7% năm 2015 xuống 5,2% năm 2016. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 9,2% năm 2016 và 7,69% năm 2017.
Thành tựu xóa đói giảm nghèo đã tạo thêm cơ sở vững chắc cho Việt Nam bảo đảm các quyền của người dân. Các chính sách an sinh xã hội đã được triển khai trên toàn quốc và thu được một số kết quả khả quan. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế tiếp tục tăng từ 77% (năm 2015) lên 86,4% (năm 2017) tương đương với 78,2 triệu người.
Tỷ lệ người nghèo và cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế đạt 77% năm 2016. Số lượng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế không ngừng tăng từ 2.506.705 người năm 2013 lên 2.839.568 (năm 2017) trong đó có 42.434 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, 1.617.367 người cao tuổi, 1.006.923 người khuyết tật, và 172.844 đối tượng khác, trong đó có người nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo, người đơn thân nuôi con thuộc hộ gia đình nghèo.
Các chương trình phát triển nông thôn đem lại kết quả tích cực, trong đó có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn được cải thiện với thu nhập bình quân đầu người/năm tăng từ 18,6 triệu (năm 2012) lên khoảng 32 triệu (năm 2017).
Năng suất lao động xã hội trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng dần qua các năm. Trong giai đoạn từ 2005-2016, năng suất lao động đã tăng gần 4,5 lần từ 7,5 triệu đồng/người (2005) lên 32,9 triệu đồng/người (năm 2016). Đến ngày 31-12-2017, 99,4% số xã trên cả nước có đường ôtô đến trung tâm xã, đặc biệt ở những địa bàn vùng cao, địa hình phức tạp. 100% số xã và 97,8% số thôn đã được điện lưới quốc gia bao phủ, 99,7% số xã đã có trường tiểu học và trường mẫu giáo, 99,5% số xã có trạm y tế xã, 60,8% xã có chợ và 58,6% số xã có nhà văn hóa.
Bà Caitlin Wiesen - Giám đốc Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho rằng, Việt Nam có thể tự hào về tiến bộ đạt được trong giảm nghèo đa chiều, giúp 6 triệu người thoát nghèo trong 4 năm từ năm 2012 - 2016 theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia.
Như vậy, với cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc, quyết tâm chính trị cao, triển khai đồng bộ các giải pháp, Việt Nam đã đạt thành tựu to lớn về xóa đói giảm nghèo, một bảo đảm vững chắc cho quyền con người ngày càng tốt hơn.
Mai Hương

Kinh tế phát triển, nền tảng vững chắc giúp Việt Nam bảo đảm tốt quyền con người

11/12/2018 20:42

Việt Nam đã có nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền con người (QCN). Theo đó, một trong những ưu tiên của Việt Nam trong thực hiện bảo đảm QCN là đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) để từ đó nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, xóa đói, giảm nghèo.

Trên thực tế những năm qua, KT-XH của Việt Nam có nhiều bước phát triển vượt bậc. Việt Nam là một trong số ít quốc gia được Liên hợp quốc đánh giá là hoàn thành sớm các Mục tiêu Thiên niên kỷ; nhất là chỉ tiêu về xóa nghèo, về đích trước 10 năm so với thời hạn. Bên cạnh đó, một trong những thành quả đáng ghi nhận là Việt Nam đã vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình; là quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất trong khu vực và thế giới. Theo đó, từ mức thu nhập thấp, tới nay, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có nhiều cải thiện, đạt mức hơn 2.500 USD/người/năm.
Cùng với đó, đầu tư cho an sinh xã hội của Việt Nam ngày càng gia tăng và đạt kết quả đáng khích lệ. Cụ thể, Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học; quan tâm tới vấn đề tạo việc làm, hỗ trợ người nghèo có điều kiện phát triển kinh tế; hệ thống y tế ngày càng phát triển đồng bộ, hiện đại; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế tới nay đạt hơn 85%; cứu trợ xã hội và thực hiện phúc lợi xã hội đã quan tâm tới các đối tượng yếu thế; quyền biểu đạt của người dân cũng được tôn trọng thông qua hệ thống đoàn thể, báo chí, đường dây nóng… Đáng chú ý, vấn đề bảo đảm môi trường có nhiều thay đổi từ nhận thức tới hành động. Trước đây, khi thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới yếu tố môi trường. Song nhiều năm trở lại đây, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam đều phát đi thông điệp mạnh mẽ: Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Cũng chính vì nhiều lý do trên, Việt Nam được tổ chức quốc tế uy tín đánh giá là một trong 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.
Có thể khẳng định, về tổng thể, người dân Việt Nam đã được hưởng đầy đủ các quyền công dân và QCN. Trong đó, với những nỗ lực đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế bền vững tạo ra nền tảng vững chắc giúp Việt Nam có điều kiện thực hiện và bảo đảm ngày càng tốt hơn QCN.
AM TRỰC (ghi)

Thành tựu quyền con người ở Việt Nam- thực tiễn là minh chứng sinh động

20:01 !! 09/12/2018

Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo đảm những quyền cơ bản của con người hay không. Chế độ chính trị XHCN mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ XHCN đến nay, Việt Nam đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng bảo đảm quyền con người cho mọi người dân.
Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo đảm những quyền cơ bản của con người hay không.

Từ nhận thức sâu sắc về quyền con người
Tuy không phải là quốc gia đầu tiên đề ra các vấn đề về quyền cơ bản của con người, nhưng Việt Nam là một trong số ít các quốc gia sớm tiếp cận về quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, thông qua khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh quyền con người chỉ thực sự được bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc.
Quốc hiệu Việt Nam từ khi thành lập chính quyền cách mạng đến nay cũng nhất quán một khẩu hiệu: “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc”. Điều đó có nghĩa là, mục tiêu trước sau như một mà cả dân tộc Việt Nam kiên trì thực hiện là bảo đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng Giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất hơn một lần nhấn mạnh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Như vậy, nếu bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” mà Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948, trong đó vấn đề hàng đầu mà Tuyên ngôn này khuyến nghị cộng đồng quốc tế và các quốc gia dân tộc phải thực hiện là bảo đảm “Tự do, công lý và hòa bình”; thì vấn đề quyền tự do trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nêu ra trước 3 năm so với bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”. Nhắc lại điều đó để thấy, với tầm nhìn vượt thời đại của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân và dân tộc Việt Nam đã khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng các giá trị quyền con người và cam kết thực hiện quyền con người trước cộng đồng quốc tế.
Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp 2013 luôn giữ một vấn đề căn cốt là hiến định các quyền con người và quyền công dân. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu bao trùm là xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, thì đến đại hội sau, mục tiêu này được bổ sung là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và sau đó là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bổ sung tiêu chí “dân chủ” và đưa tiêu chí “dân chủ” lên trước tiêu chí “công bằng, văn minh” không chỉ là vấn đề câu chữ, mà thực chất là Đảng ta đã xác lập đúng vị trí, vai trò dân chủ- nội hàm liên quan đến quyền là chủ, quyền làm chủ của nhân dân để bảo đảm quyền con người ngày càng tốt hơn.
Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc kéo dài suốt ba thập niên (1945-1975) và chịu sự tác động, ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế- xã hội khoảng chục năm sau khi đất nước thống nhất, dù rất quan tâm, song Việt Nam chưa có điều kiện thuận lợi để bảo đảm thực sự đầy đủ các quyền con người. Tuy vậy, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, hơn 30 năm qua, Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và bảo đảm tốt hơn quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đến hiện thực hóa bằng những chính sách chăm lo phát triển toàn diện con người
Đất nước càng phát triển, các thành tựu kinh tế- xã hội càng lớn thì Việt Nam càng có điều kiện quan tâm thực hiện các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam. Có những con số vốn lạnh lùng, khô khan. Nhưng cũng có những con số luôn có hồn vì nó đã “biết nói” và thể hiện trọng lượng, giá trị cao cả của mình trước công luận, trước cộng đồng quốc tế.
Thành tựu về quyền con người ở Việt Nam trong 70 năm qua thể hiện trên mọi lĩnh vực, nhất là những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế trong hơn 30 năm đổi mới (1986-2018). Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quy mô nền kinh tế năm 1985 mới có 14 tỉ USD, thì đến năm 2018 ước đạt 244 tỉ USD, tăng gấp hơn 17,4 lần. Nền kinh tế Việt Nam hiện đứng thứ 44 thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 34 khi tính theo sức mua tương đương quốc tế. Với việc giảm mạnh tỷ lệ nghèo từ trên 60% (năm 1986) xuống còn khoảng 7% (cuối năm 2017), Việt Nam đã chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình. Thu nhập bình quân đầu người năm 1985 mới đạt 230 USD đến nay đã tăng lên gần 2.540 USD (tính theo sức mua tương đương là gần 7.640 USD).
“Có thực mới vực được đạo”. Sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục không chỉ là cơ sở để chúng ta bảo đảm cái ăn, cái mặc cho người dân, mà còn là tiền đề để Nhà nước chăm lo thực hiện tốt các chính sách an sinh, văn hóa xã hội. Điều đó được thể hiện ở “chỉ số phát triển con người” (HDI). Báo cáo chuyên đề về HDI do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) vừa công bố vào trung tuần tháng 10-2018 cho biết, HDI của Việt Nam tăng liên tục trong 27 năm qua. Trong năm 2017, với chỉ số HDI là 0,684, xếp thứ 116/189 quốc gia, Việt Nam được UNDP đánh giá là quốc gia có chỉ số HDI thuộc nhóm trung bình cao.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia nỗ lực bảo đảm quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận cho người dân. Hiện nay, tất cả các ban, bộ, ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương, các giai cấp, tầng lớp, các hội nghề nghiệp, các giới, các thành phần “nam, phụ, lão, ấu” trong xã hội đều có tờ báo, tạp chí, bản tin của mình. Nếu mỗi công dân Việt Nam tham gia sinh hoạt, hoạt động ở tổ chức nào thì đều có ấn phẩm báo chí của tổ chức đó bảo đảm quyền được thông tin của mình. Internet mới vào Việt Nam từ cuối năm 1997, chỉ trong vòng 20 năm, nhờ chính sách phát triển thông thoáng, Việt Nam hiện có hơn 60% người dân sử dụng internet, xếp thứ 16 thế giới về số lượng người dùng mạng thông tin toàn cầu này.
Từ một nước bị “bế quan tỏa cảng” về nhiều mặt, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 190 nước thuộc tất cả các châu lục, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 3 quốc gia, quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia và quan hệ đối tác toàn diện với 11 quốc gia. Trong số 27 quốc gia này có 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ) và nhiều cường quốc khác như Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Brasil… Việt Nam cũng đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia.
Vị thế, hình ảnh, tiếng nói của Việt Nam ngày càng được tăng cường, nâng cao và có uy tín trên trường quốc tế. Vì vậy, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009, Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Hội đồng Kinh tế-Xã hội nhiệm kỳ 2016-2018, Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2015-2019… Tháng 5-2018 vừa qua, Việt Nam đã được 53 nước châu Á-Thái Bình Dương nhất trí đề cử là ứng cử viên duy nhất của khu vực này làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, sau hơn bảy mươi năm huy động sức dân đồng lòng thực hiện sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh, công bằng và tiến bộ xã hội.
Là một quốc gia đang phát triển, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Nhưng với bản chất của một chế độ xã hội ưu việt mà cả dân tộc đã tự nguyện lựa chọn và kiên trì thực hiện, thông qua chủ trương, đường lối phát triển kinh tế- xã hội đúng đắn và hợp xu hướng thời đại, Việt Nam ngày càng có điều kiện tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất, văn hóa để bảo đảm tốt hơn các quyền cơ bản của con người.
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra mục tiêu xây dựng đất nước theo định hướng XHCN “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với hàm ý nhấn mạnh Việt Nam luôn kiên trì, nỗ lực bảo đảm “quyền sung sướng” (dân giàu) và “quyền tự do” (dân chủ) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Khi quốc gia giàu có về vật chất, văn hóa, tinh thần và bảo đảm tự do, dân chủ về mọi mặt, đó chính là chiều sâu thể hiện cam kết chính trị của Việt Nam cùng các quốc gia và cộng đồng quốc tế thực hiện hiệu quả những giá trị phổ quát về nhân quyền đã được xác định trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”./.

Nguồn TuanVietNam.Net

Ngành nông nghiệp Việt Nam: Nhiều thành tựu, lắm thách thức!

Thứ ba, ngày 27/11/2018 09:52 GMT+7

VTV.vn - Việt Nam hiện đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông sản. GDP nông nghiệp tăng 2,66%/năm, giảm hộ nghèo nông thôn ở mức 1,5%/năm.

Hôm nay (27/11), diễn ra Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương về Tam nông (Nông nghiệp, nông dân, nông thôn). Vì vậy, các báo số ra hôm nay dành khá nhiều không gian cho nông nghiệp.
Nhận định của Thời báo Kinh doanh: Hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Trong đó, nhiều Hợp tác xã kiểu mới đã hình thành và phát triển, hỗ trợ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế hộ gia đình.
Báo Tiền Phong dẫn thống kê từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Việt Nam hiện đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông sản. GDP nông nghiệp tăng 2,66%/năm, giảm hộ nghèo nông thôn ở mức 1,5%/năm.
Có rất nhiều đánh giá tích cực về nông nghiệp, tuy nhiên tại trang 3 Thời báo kinh doanh lại chỉ ra nhiều thách thức. Trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hóa nông nghiệp được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam mới có khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước; 80% hàng nông sản bán ra thị trường thế giới lại được thông qua các thương hiệu nước ngoài. Một số mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam tuy có tỷ trọng về giá trị xuất khẩu cao nhưng thứ hạng về giá xuất khẩu lại thấp như hồ tiêu, hạt điều hay ngay cả gạo và cà phê.
Sản xuất đã khó, xuất khẩu lại càng khó, làm thương hiệu lại khó hơn. Trả lời phỏng vấn của Thời báo kinh doanh, bà Trần Thị Thanh Tâm - Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa - cho biết những khó khăn lớn nhất các doanh nghiệp nông nghiệp gặp phải là tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm nguồn vốn và biến động chính sách, pháp luật.
Bà Tâm cũng cho rằng, Nhà nước cần xây dựng chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Ưu đãi về nguồn vốn, lãi suất, thuế mềm dẻo và linh hoạt.
Trên thực tế, các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nông nghiệp đã có trong Nghị định 57/2018 của Chính phủ, tuy nhiên vẫn còn vướng mắc với luật về thuế, luật đất đai nên vẫn còn nhiều giới hạn.
Theo báo Tiền Phong, nông nghiệp cho đến nay vẫn chưa thực sự khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn chưa phát triển đồng đều, xây dựng nông thôn mới chưa đồng bộ và các vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Mặc dù vậy, đầu tư cho nông nghiệp chắc chắn vẫn sẽ là bước đi bền vững cho kinh tế Việt Nam trong tương lai. Trên tờ Đại biểu Nhân dân, nguyện Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông thôn Đặng Kim Sơn cho biết: "Nhà nước không nên thấy nông nghiệp đã có tăng trưởng tương đối rồi thì chuyển đầu tư cho lĩnh vực khác mà cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp hơn nữa, hỗ trợ nông dân làm những việc mà từng người không thể làm".

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ngoại giao trong những năm gần đây

HỒ THU 09:46 27/11/18

Việt Nam không những vẫn giữ được đà quan hệ với các đối tác ưu tiên, quan trọng mà còn tạo thêm những bước tiến mới.
Ngày 26/11, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV tại Sư đoàn 346, Quân khu I, tỉnh Thái Nguyên.
Phát biểu tại buổi tiếp xúc cử tri, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, thành tựu của công tác đối ngoại trong những năm vừa qua là kết quả của việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ cùng với việc phát huy tối đa sức mạnh nội lực, vai trò, vị thế của đất nước...
Công tác đối ngoại trong gần 3 năm qua, đặc biệt là năm 2017, đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá là “đạt được nhiều kết quả quan trọng, trở thành một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước ta”.
Theo Phó Thủ tướng, ngoại giao đa phương có bước chuyển lớn về chất, đặc biệt trên phương diện “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, thể hiện rõ nét trong quá trình Việt Nam làm chủ nhà APEC năm 2017 và Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2018 (WEF ASEAN 2018).
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh với cử tri Sư đoàn Bộ binh 346 trực thuộc Quân khu I. Ảnh: Thu Hằng/TTXVN
Sự tham dự của lãnh đạo 21 nền kinh tế cùng sự tham gia đông đảo của cộng đồng doanh nghiệp quốc tế và trong nước tại Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh APEC là một trong những minh chứng rõ nét về sức hấp dẫn của Năm APEC tại Việt Nam.
Quan trọng hơn, APEC tái khẳng định vai trò là diễn đàn liên kết kinh tế hàng đầu của khu vực với các mục tiêu của APEC là tự do thương mại, thuận lợi hóa đầu tư và tăng trưởng trong khu vực, qua đó cho thấy vai trò điều phối dẫn dắt của nước chủ nhà Việt Nam, tiếp thêm sức sống mới cho liên kết và hội nhập khu vực, đồng thời làm nổi bật vị thế và uy tín của Việt Nam ở tầm vóc toàn cầu.
APEC còn mang lại những lợi ích cụ thể với 121 thỏa thuận và hợp đồng được ký kết, trị giá 20 tỷ USD; các chỉ số đều cao gấp 10 lần so với năm 2006 khi Việt Nam lần đầu tiên làm chủ nhà diễn đàn này.
Năm APEC 2017 đã thông qua 20 văn kiện và gần 10 sáng kiến của Việt Nam được các thành viên ủng hộ đưa vào các văn kiện của APEC.
Trong khi đó, WEF ASEAN 2018 được WEF đánh giá là một trong những diễn đàn về khu vực thành công nhất trong 27 năm qua, với sự tham dự của đông đảo các nhà lãnh đạo và cộng đồng doanh nghiệp.
Việt Nam cũng đã trở thành ứng viên duy nhất của khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021, cho thấy sự nhất trí cao, sự coi trọng của các nước đối với vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam không những vẫn giữ được đà quan hệ với các đối tác ưu tiên, quan trọng mà còn tạo thêm những bước tiến mới về chất.
Trong năm 2017 và những tháng đầu năm 2018, lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã thực hiện trên 30 chuyến thăm đến các nước, đồng thời đón hơn 40 đoàn lãnh đạo cấp cao các nước đến thăm Việt Nam.
Đặc biệt, trong thời gian ngắn, Việt Nam đã đón các nhà lãnh đạo của hầu hết các nước lớn, quan trọng đến thăm như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Pháp, Ấn Độ, Canada… và lãnh đạo các nước láng giềng, bạn bè truyền thống.
Trong đó, lãnh đạo của Trung Quốc và Hoa Kỳ đã thăm Việt Nam trong đầu nhiệm kỳ, hay chưa bao giờ Nhà Vua và Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam trong cùng một năm.
Với việc nâng cấp quan hệ với Australia lên tầm đối tác chiến lược, cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 quốc gia, trong đó 2/3 số quan hệ đối tác chiến lược được thiết lập sau Đại hội Đảng lần thứ XI và đối tác toàn diện với 11 quốc gia.
Việt Nam đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, góp phần tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển và an ninh của đất nước.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán 16 FTA song phương - tỉ lệ khá cao so với các nước trong khu vực.
Mới đây, Quốc hội đã thông qua Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), khẳng định quyết tâm hội nhập và đổi mới mạnh mẽ của đất nước.
Theo Phó Thủ tướng, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ngăn ngừa xung đột, bảo vệ đất nước từ xa, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhất là an ninh chủ quyền biển đảo.
Hồ Thu