Friday, February 15, 2019

Để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển

29/1/2019 23:57'
Nuôi trồng thủy sản ở vịnh Lan Hạ - Nguồn: zing.vn
Kết quả đạt được và những hạn chế trong việc tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam
Những kết quả đạt được
Qua hơn 10 năm,việc triển khai Nghị quyết số 09 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, đạt được những thành tựu quan trọng:
Góp phần nâng cao nhận thức của các ngành các cấp và toàn xã hội về vai trò của biển, tập trung trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân về chủ quyền, phát triển biển, đảo của Tổ quốc.
Bảo đảm giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, năng lực và khả năng tác chiến của các lực lượng bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển từng bước được nâng cao, hiện đại hóa.
Trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đồng thời thu hút các nguồn lực theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Một số ngành lĩnh vực kinh tế biển đã có bước phát triển nhanh, từng bước hình thành một số cảng có tầm cỡ khu vực, như cảng Cái Mép - Thị Vải, sản lượng và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng cao, du lịch biển có bước phát triển, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP, đã có sự kết hợp giữa khai thác và nuôi trồng hải sản.
Công tác điều tra tài nguyên môi trường biển được chú trọng hơn, kết cấu hạ tầng biển được cải thiện từng bước cả về đường bộ ven biển và hệ thống cảng hàng không.
Hạn chế, yếu kém
Ngoài kết quả đạt được, việc triển khai Chiến lược biển trong 10 năm qua cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, nổi bật như:
Một số mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết về phát triển kinh tế biển và ven biển chưa đạt được (như chỉ tiêu đóng góp của kinh tế biển và ven biển khoảng 53% - 55% tổng GDP của cả nước, thu nhập bình quân đầu người của nhân dân vùng biển và ven biển cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước). Về tổng thể, quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý, mới phát triển một phần ở vùng biển quốc gia, chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế, phương thức khai thác kinh tế biển chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ.
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 chưa dự báo và đánh giá sự điều chỉnh chiến lược biển của các nước lớn, như Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt những xu hướng mới tình trạng gia tăng căng thẳng trên Biển Đông, liên quan đến các nội dung về an ninh, quốc phòng và đối ngoại trên biển.
Mặc dù trong Nghị quyết đã nêu định hướng phát triển khoa học - công nghệ biển, trong đó xác định phát triển khoa học - công nghệ biển phải trở thành động lực của phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, việc triển khai nhận thức về hướng đi phát triển khoa học - công nghệ biển còn chưa đầy đủ, trên thực tế khả năng khoa học - công nghệ biển còn hạn chế. 
Trong Nghị quyết, phần giải pháp có nêu định hướng đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ triển khai Chiến lược biển (từ cấp quản lý vĩ mô đến nguồn nhân lực của các ngành liên quan đến kinh tế biển, ngư dân). Tuy nhiên, việc nhận thức còn chưa sâu sắc đầy đủ, do vậy việc triển khai đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ triển khai Chiến lược biển còn lúng túng, hạn chế, thiếu đồng bộ.
Về quản lý nhà nước, mặc dù trong Nghị quyết có đặt vấn đề “Xây dựng cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp, quản lý thống nhất về biển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển một cách đầy đủ”, tuy nhiên việc thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp về biển, đảo mặc dù là bước đi quan trọng, song chưa thực hiện được đầy đủ vai trò quản lý thống nhất và tổng hợp các vấn đề trên biển, đảo. Tình trạng quản lý nhà nước về biển, đảo chưa đủ mạnh, thiếu sự tập trung thống nhất; phân công, phân cấp phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, trong thực hiện thiếu sự kiểm tra đôn đốc và còn hiện tượng chồng chéo, thiếu phối hợp.
Công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mặc dù được chú trọng, song chưa thực hiện được mục tiêu như Nghị quyết đề ra là phải đi trước một bước với tầm nhìn dài hạn và hiện đại theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế và khu vực. Tình trạng phát triển kinh tế biển, xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đảo còn mang tính dàn đều, thiếu đầu tư chiều sâu, đủ mức để tạo nhanh đột phá cho phát triển hạ tầng quốc gia liên vùng.
Việc nhận thức về xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh làm chủ lực để phát triển kinh tế biển trong một số lĩnh vực, như dầu khí, vận tải biển... chưa đồng bộ, trong khi cơ chế quản lý và giám sát không chặt chẽ, cộng thêm năng lực, phẩm chất của cán bộ quản lý các tập đoàn quy mô lớn còn hạn chế, yếu kém, đã dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ, thất thoát tài sản, tham nhũng tại Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn VINASHIN, Tập đoàn VINALINE.
Nhận thức về bảo vệ môi trường biển và ven biển, phòng, chống thiên tai đã được xác định trong Nghị quyết, tuy nhiên việc quán triệt của các ngành, các cấp chưa toàn diện, dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn lợi thủy sản, không sử dụng bền vững tài nguyên biển, môi trường biển xuống cấp trầm trọng ở nhiều nơi. Việc khai thác quá “nóng” tài nguyên biển dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, chưa chú trọng đến phát triển bền vững còn xảy ra ở nhiều địa phương. Việc thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đồng bộ, hiệu quả còn hạn chế. 
Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
Nguyên nhân khách quan do bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi theo hướng bất lợi cho Chiến lược biển của nước ta, như cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009 khiến giá dầu thô sụt giảm nhanh chóng; sự cạnh tranh khốc liệt của các hãng tàu lớn trong ngành vận tải biển; việc thu hẹp ngư trường truyền thống, sự suy giảm nguồn lợi thủy sản nghiêm trọng. Bên cạnh đó, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng, những diễn biến phức tạp về an ninh, chủ quyền trên Biển Đông đã tác động không thuận đối với việc triển khai Chiến lược biển của Việt Nam trong 10 năm qua.
Về nguyên nhân chủ quan, ngoài việc Chiến lược biển xác định các mục tiêu, nhiệm vụ còn chưa phù hợp, mang tính chủ quan; việc nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành mặc dù được nâng lên, song còn chưa đầy đủ, đồng bộ.
Bộ máy, phương thức quản lý nhà nước về biển, đảo nhìn chung còn nhiều hạn chế. Một số cơ chế, chính sách phát triển kinh tế biển chưa phù hợp, hiệu quả không cao, thậm chí bị lợi dụng, như Chương trình đánh bắt xa bờ, Đề án trang bị tàu sắt cho ngư dân hiệu quả thấp, vấn đề thu hút khuyến khích người dân ra đảo định cư còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn lực đầu tư cho kinh tế biển, các dự án trọng điểm còn bị phân tán, dàn trải, thiếu sự tập trung, thống nhất nên chưa phát huy tốt nhất hiệu quả. Trình độ khoa học - công nghệ biển và đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực biển chưa được quan tâm đầu tư đúng mức để tạo bước phát triển mới.
Một số bài học rút ra
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn triển khai Chiến lược biển Việt Nam trong hơn 10 năm qua ở nước ta cho thấy, để xây dựng Chiến lược biển mang tính khoa học và khả thi cao thì tiền đề cần thiết quan trọng là phải đánh giá toàn diện bối cảnh quốc tế khu vực, vị trí của Việt Nam trong khu vực, tình hình trong nước để xác định chuẩn xác lợi thế so sánh của ta trong cuộc cạnh tranh toàn cầu, cũng như xác định tầm nhìn chiến lược, động lực phát triển của Chiến lược biển Việt Nam.
Chiến lược biển phải bảo đảm định hướng chiến lược thống nhất giữa các lĩnh vực, như kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh - quốc phòng - đối ngoại trong bối cảnh hiện nay và xác định ví trí được chú trọng đặt lên hàng đầu.
Việc xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược biển là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, việc tổ chức thực hiện phải sâu sát, quyết liệt, phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương, tập thể và cá nhân. Cần chú trọng đầu tư, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, đổi mới thể chế để thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra trong chiến lược.
Bối cảnh mới và những đề xuất trong thời gian tới
Tình hình quốc tế và khu vực
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có sự thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, tăng trưởng của kinh tế thế giới và khu vực đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, tình hình chính trị - an ninh diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố bất ổn, khó lường tác động đến chiến lược biển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Xuất hiện những xu hướng mới, như sự chuyển dịch quyền lực của các nước lớn, tăng cường sự cạnh tranh chiến lược tại nhiều khu vực trên thế giới, nhất là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông. Các nước lớn vừa gia tăng cọ sát trong các vấn đề mang tính chiến lược, vừa tăng cường lôi kéo các nước nhỏ vào các tập hợp lực lượng trong việc triển khai điều chỉnh chiến lược biển của mình. Hai xu hướng bảo hộ và tự do hóa thương mại cọ sát nhau gay gắt mà 2 đại diện chủ yếu là sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc.
Biển Việt Nam thuộc Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% số đó đi qua Biển Đông. 
Biển Đông trong thời gian qua xuất hiện nhiều xu hướng bất ổn mới do Trung Quốc đã xác lập một “hiện trạng mới” có lợi cho Trung Quốc và đang tìm cách củng cố hiện trạng mới này. Trung Quốc công khai khẳng định lợi ích và tuyên bố kiên trì mục tiêu kiểm soát Biển Đông. Bên cạnh đó, nước này cũng triển khai nhiều biện pháp vừa nhằm làm chìm vấn đề Biển Đông, hạn chế sự can dự của Mỹ, vừa tiếp tục lôi kéo và chia rẽ các nước ASEAN trong vấn đề này. Trung Quốc thực hiện chiến lược cường quốc đại dương, triển khai sáng kiến “Vành đai, Con đường” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”. Mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của Trung Quốc là hiện thực hóa chủ quyền “đường lưỡi bò”, tiếp tục xây dựng các bãi cạn chiếm đóng trái phép của ta thành đảo nhân tạo, thực hiện quân sự hóa Biển Đông, âm mưu thôn tính độc chiếm Biển Đông. Đây chính là mối đe dọa trực tiếp đến lợi ích quốc gia, chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy trong nội bộ các nước ASEAN có xu hướng bị phân hóa trước vấn đề Biển Đông, một số nước theo đuổi chính sách thực dụng với Trung Quốc và chịu sự tác động của các nước lớn. Quá trình chuyển từ Tuyên bố ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) sang Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) thực chất tại Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN còn gặp nhiều khó khăn. 
Ngoài tác động của các yếu tố an ninh - quốc phòng, cạnh tranh các nước lớn trong bối cảnh mới thì tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tạo ra cơ hội và thách thức trong việc khai thác sử dụng các tiềm năng to lớn của biển cũng như thách thức trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ triển khai chiến lược biển của các quốc gia như giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tình hình cạn kiệt nguồn tài nguyên biển, ô nhiễm môi trường.
Tình hình trong nước
Qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước, uy tín quốc tế của nước ta ngày càng nâng cao, năm 2017, theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năng lực, cạnh tranh của kinh tế Việt Nam đã tăng 5 bậc, lên thứ 55/137. Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc, lên thứ 68/190 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Việt Nam tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), ngày 9-3-2018 vừa qua Việt Nam đã cùng các đối tác tham gia ký Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) tại Chi-lê. Hiệp định này gần như mở cửa hoàn toàn thị trường của 11 nền kinh tế chiếm tới 13,5% GDP toàn cầu, tương đương khoảng 13.000 tỷ USD. Hiệp định này đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức để Việt Nam gia tăng xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh cải cách thể chế, thủ tục hành chính, xây dựng môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế về biển với các quốc gia trong khu vực, nhằm phát triển bền vững biển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Nước ta bước vào giai đoạn mới của sự phát triển với những thời cơ thuận lợi, cùng thách thức, khó khăn. Bên cạnh những kết quả đạt được, đất nước cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn về tiềm lực, sức cạnh tranh còn hạn chế của nền kinh tế, các nguồn lực đầu tư phát triển còn eo hẹp, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về biển còn hạn chế... Trong bối cảnh đó, trên Biển Đông, tranh chấp chủ quyền, biển đảo còn diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi sự tập trung và chuẩn bị kỹ lưỡng cho tình huống mới. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đang đứng trước rất nhiều thách thức, khó khăn, do vậy cần không ngừng nâng cao cảnh giác để không rơi vào thế bị động bất lợi trong vấn đề Biển Đông, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra, kiên quyết giữ vững chủ quyền, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến Chiến lược biển của nước ta trong thời gian tới. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan cấp bách của thực tiễn đất nước trong bối cảnh mới của khu vực, thế giới trong thời gian tới.
Quan điểm chỉ đạo và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị 
Quan điểm chỉ đạo trong Chiến lược biển trong giai đoạn phát triển mới, gồm:
Một là, thống nhất nhận thức vai trò then chốt, quan trọng của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thế kỷ XXI được xác định là “Thế kỷ của đại dương”, do vậy biển có ý nghĩa vô cùng quan trọng sống còn để nước ta phát triển bền vững đối với các dân tộc Việt Nam và các thế hệ mai sau, đồng thời mở rộng hợp tác, giao lưu khu vực và quốc tế. Chiến lược biển phải góp phần quan trọng đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa biển Việt Nam thể hiện truyền thống dân tộc và giao lưu hội nhập quốc tế. Tích cực chuẩn bị các điều kiện để nước ta không những khai thác, sử dụng hiệu quả vùng biển quốc gia mà còn vươn ra vùng biển quốc tế.
Hai là, xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta trên các vùng biển và thềm lục địa, làm cho đất nước ta thật sự giàu mạnh từ biển, bảo vệ vững chắc môi trường biển.
Ba là, xác lập chủ quyền đầy đủ, quản lý bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của nước ta trên các vùng biển, thềm lục địa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của hệ thống chính trị, nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ vững chắc vùng trời, các vùng biển, hải đảo của Tổ quốc, góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới, nhất là các nước có lợi ích tại khu vực Biển Đông. Tăng cường đối thoại, hợp tác, giải quyết các vấn đề xung đột trên biển bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia của mỗi nước.
Bốn là, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững các ngành kinh tế biển, có lộ trình bước đi hợp lý đến năm 2030, 2045, trước mắt chú trọng phát triển các ngành kinh tế tiềm năng, như du lịch biển; kinh tế hàng hải; khai thác, nuôi trồng chế biến hải sản; xây dựng các đặc khu kinh tế, tìm kiếm thăm dò, khai thác chế biến dầu khí....
Năm là, xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược biển là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông báo chí trong việc tuyên truyền, phổ biến về vị trí vai trò của biển, đảo.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị sau:
- Nâng cao nhận thức, tăng cường tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng về biển, đảo của Tổ quốc, xây dựng và thực hiện định hướng Chiến lược biển thống nhất trong giai đoạn tới là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân nên để tạo sức mạnh tổng hợp có thể phổ biến công khai Chiến lược biển. 
- Tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về Chiến lược biển, tăng cường phối hợp chặt chẽ các cấp, ngành và liên kết các thành phần kinh tế trong thực hiện Chiến lược biển.
- Đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về biển đảo. Tập trung xây dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thực hiện Luật Biển Việt Nam; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Thủy sản (năm 2017), Luật Quy hoạch (năm 2017) và một số luật khác mới được ban hành liên quan đến biển, đảo, tạo điều kiện cơ sở pháp lý để phát triển một số đặc khu kinh tế ven biển có tầm quốc tế.
- Đổi mới đồng bộ, mạnh mẽ thể chế, cơ chế chính sách, cho phát triển kinh tế biển. Cơ cấu lại tổng thể các ngành kinh tế biển theo hướng liên kết chặt chẽ các ngành, gắn kết phát triển các ngành kinh tế với phát triển các vùng, trung tâm kinh tế biển, doanh nghiệp biển. Xây dựng và mở rộng các mô hình quản lý tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, như tổ chức khai thác biển tập trung liên kết các khâu gia tăng chuỗi giá trị sản phẩm, mô hình hợp tác sản xuất trên biển. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách vượt trội cho một số địa phương, địa bàn được xác định đóng vai trò trung tâm kinh tế biển mạnh của cả nước. Tập trung đầu tư có hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, đô thị ven biển và hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.
- Áp dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vào thực hiện các mục tiêu của Chiến lược biển quốc gia, nhất là chuyển từ kinh tế biển chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, khai thác tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường sang kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, phát huy hiệu quả tiềm năng lợi thế của biển Việt Nam.
- Bảo đảm các nguồn lực, tập trung đầu tư để thực hiện Chiến lược biển, nhất là định hướng phát triển khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển. Tiếp tục đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu kinh tế quốc phòng trên biển. Tăng cường hợp tác quốc tế về biển.
- Coi trọng và tăng cường công tác quy hoạch, kế hoạch, nghiên cứu dự báo trong triển khai thực hiện Chiến lược biển./.
Trần Nguyễn TuyênPGS, TSKH, Hội đồng Lý luận Trung ương

Thành tựu nhân quyền của Việt Nam là to lớn, vững chắc - không ai có thể phủ nhận được

1/28/2019 5:15:52 PM
 
Ngày 22-1-2019, tại trụ sở Liên hợp Quốc (Geneva, Thụy Sĩ), Đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung dẫn đầu đã tham gia phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp Quốc. Cùng đi và tham dự phiên đối thoại có các cơ quan: Đại diện Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ủy ban Dân tộc, Ban Tôn giáo Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao. Tại buổi đối thoại này, có 122 đại diện các quốc gia tham gia. Trước đó, đầu tháng 12 năm 2018, Việt Nam đã chính thức nộp Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III cho Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.
Báo cáo phổ quát là cơ chế rà soát định kỳ (còn được gọi là Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR), do Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc quy định từ năm 2008. Đây là cơ chế rà soát định kỳ, 4-5 năm một lần về tình hình bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tại tất cả các nước thành viên Liên hợp Quốc trên tinh thần bình đẳng, đối thoại xây dựng. Việt Nam đã tham gia các chu kỳ UPR và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các khuyến nghị từ các buổi báo cáo trước đó. Báo cáo phổ quát định kỳ lần này của Việt Nam là lần thứ Ba (lần thứ Nhất, 2009; lần thứ Hai, 2014) thể hiện rõ quan điểm về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Trong Báo cáo lần thứ Ba, trước hết, Việt Nam làm rõ việc thực hiện các khuyến nghị, từ báo cáo lần thứ Hai. Tính đến tháng 10-2018, Việt Nam đã thực hiện được 175 trong số 182 khuyến nghị (chiếm 96,2%); 7 khuyến nghị còn lại đang được xem xét thực hiện vào thời điểm phù hợp.
Báo cáo UPR của Việt Nam lần này đã trình bày khá đầy đủ về thành tựu của Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền con người. Khác với Báo cáo lần thứ 2, những nội dung của Báo cáo được đặt trong bối cảnh cuộc Cách mạng khoa học Công nghệ lần thứ Tư - Cuộc cách mạng dựa trên internet, mạng điện tử nói chung, mạng xã hội nói riêng; đồng thời, Báo cáo cũng được xây dựng dựa trên quan điểm Đại hội Đảng XII của Đảng cộng sản Việt Nam và Hiến pháp 2013 cùng nhiều bộ luật liên quan đến quyền con người.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng ta xác định: “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết…; Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân…”. Kế thừa thành tựu đã đạt được trong nhiều năm qua, thực hiện quan điểm của Đại hội XII, Nhà nước ta đã đạt được những thành quả to lớn về quyền con người.
Trên lĩnh vực bảo đảm quyền dân sự, chính trị, trước hết, đó là những thành tựu về xây dựng pháp luật. Tính đến cuối năm 2018, Quốc hội ta đã sửa đổi và ban hành mới hơn 90 văn bản luật, trong đó có những bộ luật như: Luật Báo chí, 2016 (có hiệu lực từ 01-01-2017); Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, 2016 (có hiệu lực từ 01-01-2018); Luật Tiếp cận thông tin, 2016 (có hiệu lực từ 01-7-2018); Nghị định 72/2013 về “Quản lý sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng” (có hiệu lực từ 01-9-2013); Luật An ninh mạng, 2018 (có hiệu lực từ 01-01-2019), v.v. Tất cả những bộ luật và Nghị định nói trên đều tuân thủ nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đúng Hiến pháp 2013. Trong đó, có 2 nguyên tắc cơ bản sau: (1) “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, … (Điều 3); (2) “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”( Điều 4).
Đáng chú ý, trong nội dung sửa đổi và trong những bộ luật mới đã thể hiện những nhận thức, quan điểm mới của Nhà nước ta trên lĩnh vực quyền con người. Chẳng hạn, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) không chỉ đơn giản hóa các thủ tục cấp phép cho các hoạt động thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo, mà còn bảo đảm quyền cho tất cả người có đạo - cho dù họ là công dân Việt Nam hay người nước ngoài, cho dù họ là người tự do hay đang thi hành án. Mục 5 (Điều 5) quy định: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, … bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều 8, quy định: “ Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, v. v. Hiện nay, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta diễn ra bình thường, nếu không nói là sôi động.
Nghị định của Chính phủ về “Quản lý, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”, xác định chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho nhân dân ở các vùng khó khăn có thể sử dụng dịch vụ này. Điều 4 quy định: “Thúc đẩy việc sử dụng Internet trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế,…; Phát triển hạ tầng Internet băng rộng đến trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, thư viện, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, các điểm truy nhập internet công cộng và hộ gia đình. Chú trọng việc phổ cập dịch vụ internet ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”
Trong bối cảnh internet, mạng điện tử phát triển mạnh mẽ, bảo vệ chủ quyền Quốc gia trên không gian mạng là một nhiệm vụ quan trọng, tất yếu. Tuy nhiên, Luật An ninh mạng vẫn xác định nguyên tắc pháp quyền của Nhà nước ta, đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Đó là những nguyên tắc sau: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; …; Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia với … bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Điều 4).
Đối với các trang mạng đang hoạt động tại Việt Nam, Luật An ninh mạng quy định: “Doanh nghiệp trong nước và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ; Doanh nghiệp ngoài nước quy định tại khoản này phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam” (Điều 26). Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng theo Luật An ninh mạng này dựa trên thông lệ quốc tế và không cản trở hoạt động của các doanh nghiệp mạng đang triển khai dịch vụ ở Việt Nam, trong đó có tập đoàn Google, Facebook.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người. Đó là “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc” (1981); “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” (1981); “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội”, (1982); “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị” (1982); “Công ước về quyền trẻ em” (1990); “Công ước chống tra tấn (CAT) và “Công ước về quyền của người khuyết tật” (2014), v.v. Những công ước nói trên đều đã được nội luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia đối thoại về quyền con người với nhiều quốc gia, như: Mỹ, Australia, Thụy Sỹ và EU. Những cuộc đối thoại này nhằm trao đổi quan điểm và học hỏi lẫn nhau để nâng cao hơn sự hưởng thụ quyền của người dân ở mỗi quốc gia.
Quyền làm chủ của người dân Việt Nam được thể hiện rõ ở quyền bầu cử và ứng cử. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV (nhiệm kỳ 2016-2021) đã cho thấy điều này. Theo số liệu thống kê được công bố chính thức, cả nước có 67.485.482 cử tri, trong đó số cử tri đã tham gia bỏ phiếu là 67.049.091 người, đạt tỷ lệ 99,35%. Cơ cấu Đại biểu trúng cử thể hiện quyền lựa chọn đại biểu của nhân dân, kết quả cụ thể như sau: Đại biểu là người dân tộc thiểu số: 86 người (đạt 17,30%); Đại biểu nữ: 133 người (đạt 26,80%); Đại biểu là người ngoài Đảng: 21 người (đạt 4,20%); Đại biểu trẻ tuổi (dưới 40 tuổi): 71 người (đạt 14,30%). Mặc dù cơ cấu này chưa đạt yêu cầu của Hội đồng bầu cử đề ra, nhưng so với các cuộc bầu cử trước đây đã có những tiến bộ nhất định.
Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân được thể hiện ở tiếng nói của những đại biểu đại diện của mình tại Quốc hội. Những ai theo dõi thông tin trên mạng đều thấy rõ, các kỳ họp Quốc hội trong những nhiệm kỳ gần đây đều được truyền hình trực tiếp để người dân theo dõi; những phiên họp chất vấn được nhân dân đặc biệt quan tâm; những vấn đề nóng như về sách giáo khoa, về các chốt thu phí BOT,... đã được nêu ra và trao đổi thẳng tại hội trường giữa đại biểu với các lãnh đạo bộ liên quan.
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí và tự do sử dụng internet, mạng xã hội của người dân đã được bảo đảm không chỉ về tư tưởng, chính trị, mà cả về cơ sở kỹ thuật (do Nhà nước đầu tư). Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ, đặc biệt là internet, mạng điện tử nói chung, mạng xã hội nói riêng, nên việc kết nối dịch vụ này được tiến hành khá sớm. Năm 1997, Việt Nam kết nối với xa lộ thông tin của thế giới, đặt nền móng cho internet Việt Nam. Từ đây, người Việt Nam đã có thể tiếp cận với các nguồn thông tin dựa trên internet, mạng xã hội.
Theo báo cáo của tổ chức nghiên cứu về internet - WAS (We Are Social - một công ty có trụ sở ở Anh), Việt Nam hiện nay với dân số xấp xỉ 93.6 triệu người, tính đến tháng 01-2017 có tới 50.050 triệu người dùng internet, chiếm 53% dân số, và có đến 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số. Với tỷ lệ này, Việt Nam là một trong những nước đứng hàng đầu khu vực Đông Nam Á về sử dụng internet, mạng xã hội.
Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, Nhà nước ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng “Chính phủ điện tử”; Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm cung cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, kết quả nổi bật trong năm 2018 là, tăng trưởng GDP đạt 6,98%, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,7%); bình quân tăng trưởng 3 năm 2016 - 2018 tăng 6,57% (chỉ tiêu kế hoạch  5 năm là 6,5 - 7%); dự trữ ngoại hối nhà nước đạt trên 60 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 9 tháng (đầu năm 2018) đạt trên 352 tỷ USD, cả năm ước đạt 475 tỷ USD, tăng 11,7%; trong đó, xuất khẩu 238 tỷ USD, tăng 11,2% (mục tiêu 7 - 8%). Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Thực hiện chủ trương giảm phiền hà cho người dân, các cơ quan chức năng đã cắt giảm (ước tính) 50% thủ tục hành chính; trong đó, cắt giảm, đơn giản hóa 61% thủ tục, điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu. Cả năm có khoảng 130 nghìn doanh nghiệp đăng ký mới.
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, theo Nghị quyết của Quốc hội, Nhà nước đã huy động nguồn lực xã hội vào các hoạt động giảm nghèo, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số gặp điều kiện khó khăn. Theo đó, tốc độ giảm nghèo năm 2018 khá nhanh so với thời kỳ trước; tỷ lệ hộ nghèo tính đến cuối năm 2018 còn 5,2 - 5,7%, giảm 1 - 1,5% (riêng các huyện nghèo giảm trên 4%); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cả nước ước đạt 86,9%, vượt chỉ tiêu đề ra (85,2%). Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, trong đó thu nhập của hộ nghèo tăng từ 15 đến 20%; tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% năm 2015 xuống 7,69% năm 2017. 38% số người dân tộc ít người dịch chuyển lên nhóm có điều kiện kinh tế cao hơn (mức chung cả nước là 28%). Có thể nói hiếm có một quốc gia nào lại có nhiều chính sách xã hội như Nhà nước ta. Chẳng hạn như sự hỗ trợ về tài chính cho người nghèo, hộ nghèo thông qua “Ngân hàng chính sách xã hội”; hoặc chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo ở nông thôn (theo Quyết định 33/2015/QĐ-TTg)… 
Trên lĩnh vực giáo dục, cho đến nay đã có 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Bình đẳng giới là một trong những chỉ số về quyền con người quan trọng. Cho đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (2016 – 2021), tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Quốc hội đạt 26,71%, cao hơn mức trung bình thế giới là 22,3%; phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở kinh doanh đạt hơn 27,8%. Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về công nhận các danh hiệu văn hóa. Cho đến năm 2018, Việt Nam có thêm 11 di tích và 29 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được xếp hạng.
Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế về quyền con người, Nhà nước ta đã thể hiện nhất quán là một thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng Quốc tế, trong đó có Hội đồng nhân quyền. Việt Nam từng được bầu là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (Nhiệm kỳ 2014-2016).  
Đáng tiếc trong thời gian qua, trên internet, mạng xã hội đã có những tiếng nói không công bằng và nhận thức sai lầm về quyền con người ở Việt Nam. Chẳng hạn, họ cho rằng những blogger lợi dụng internet, mạng xã hội, tán phát thông tin xuyên tạc, chính sách, pháp luật Việt Nam, hoặc họ cho rằng bị các cơ quan chức năng xử lý, bắt, đưa ra xét xử tại tòa là “vi phạm quyền con người”. Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người là một lĩnh vực pháp luật, trong đó quyền bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ và phải chịu những hạn chế nhất định. Trong tính hiện thực của nó, quyền con người là một quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia; việc bảo đảm quyền con người phải gắn liền với bảo đảm quyền của cộng đồng, của xã hội và của Nhà nước.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) quy định: "Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá…” (Điều 1). Quy định này có nghĩa, các Nhà nước có quyền đưa ra các quy định pháp luật dựa trên truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa hoặc chế độ chính trị, trong đó có các quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân.
Quyền tự do ngôn luận, báo chí, Công ước trên quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, …; Việc thực hiện những quyền này … kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, để: “Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội” ( Điều 19).
Như vậy có thể nói, thành tựu nhân quyền Việt Nam là to lớn, vững chắc, dựa trên chế độ xã hội ưu việt, thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cùng với một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn thiện, không có ai, không lực lượng chính trị, trong và ngoài nước có thể phủ nhận được.

TS. CAO ĐỨC THÁI, Giảng viên cao cấp, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Kiều bào đóng góp vào những thành tựu phát triển kinh tế xã hội đất nước

21:55 | 26/01/2019

Phát biểu tại chương trình giao lưu nghệ thuật trong khuôn khổ Xuân quê hương 2019, diễn ra tối 26/1 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định, năm 2018 vừa khép lại với niềm phấn khởi tự hào bởi những thành tựu to lớn, toàn diện mà đất nước đã đạt được. Để đạt được những thành tựu ý nghĩa đó cùng với sự lãnh đạo của Đảng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, không thể không nhắc đến sự đóng góp vô cùng quý báu, thiết thực cả về vật chất, tinh thần của cộng đồng hơn 4,5 triệu người Việt Nam ở nước ngoài.

 

"Bà con kiều bào luôn hướng về quê hương, đất nước, tiếp tục đoàn kết, tương trợ lẫn nhau để cùng xây đựng cộng đồng vững mạnh, hòa nhập, thành công, có vị thế ngày càng cao, có nhiều đóng góp cho nước sở tại.
Mỗi người Việt Nam ở nước ngoài là một vị đại diện gắn kết, vun đắp cho tình hữu nghị giữa đất mẹ Việt Nam với quê hương thứ hai của mình, đồng thời trực tiếp tham gia thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, công cuộc xây dựng phát triển bền vững của đất nước vì sự phồn vinh của dân tộc", Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh phát biểu.
Những đóng góp của kiều bào với quê hương, đất nước là vô cùng quý báu và rất đáng trân trọng. Đảng, Nhà nước và nhân dân cả nước luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một phần không thể tách rời, là máu thịt, tiềm năng và nguồn lực lớn của dân tộc Việt Nam. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn nhận được sự theo dõi, quan tâm thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.
Năm qua, Tổng Bí thư đã dành thời gian tiếp thân mật 100 kiều bào tiêu biểu nhân dịp Xuân quê hương 2018. Thủ tướng Chính phủ đã đối thoại với trí thức người Việt Nam tiêu biểu ở nước ngoài trong khuôn khổ Chương trình kết nối mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam và tại Diễn đàn tri thức trẻ Việt Nam toàn cầu.
Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được triển khai tích cực, chủ động; các hoạt động hỗ trợ bà con củng cố, địa vị pháp lý, gìn giữ bản sắc dân tộc, duy trì tiếng Việt để gắn kết với cộng đồng; công tác thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh, trong đó chú trọng đổi mới về hình thức và nội dung, đáp ứng thiết thực nhu cầu của kiều bào.
Công tác đại đoàn kết dân tộc dành cho kiều bào cũng được triển khai hiệu quả, phong phú với nhiều hoạt động như Xuân quê hương, giỗ Tổ Hùng vương, Trại hè… Các hoạt động trên đã nhận được sự hưởng ứng tham gia tích cực của đông đảo kiều bào, góp phần giúp bà con có thông tin đầy đủ và khách quan về tình hình đất nước, khơi gợi và lan tỏa tình cảm hướng về đất nước.

kieu bao dong gop vao nhung thanh tuu phat trien kinh te xa hoi dat nuoc
(Ảnh: Nguyễn Hồng)

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhận định, "chúng ta bước sang năm 2019 với niềm tin và hy vọng mới. Với những thành công đạt được trong năm Mậu Tuất 2018, chúng ta lạc quan và tin tưởng rằng năm Kỷ Hợi 2019, đất nước sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu rực rỡ hơn nữa. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với lòng tự hào, tự tôn dân tộc sẽ cùng nhau đoàn kết, tiếp tục đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và phát triển bền vững và tiến trình hội nhập sâu rộng của đất nước".

 

Cộng hưởng sức mạnh làm nên thành tích kinh tế

2018 được đánh giá là một năm đạt được khá nhiều thành tựu trên tất cả các mặt, các lĩnh vực, trong đó sự phát triển kinh tế - xã hội là một điểm sáng...

14/01/2019 10:44
Sự thống nhất cao độ của cả bộ máy chính trị đang đưa đất nước tiến nhanh hơn trên con đường đi tới hưng thịnh. Tổng Bí thư hai năm liên tiếp tới dự Hội nghị Chính phủ và địa phương, còn Ban Kinh tế Trung ương gắn kết chặt chẽ với Chính phủ trong lắng nghe từng hơi thở của nền kinh tế...
Không chỉ là thống nhất, gắn kết mà các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội đều rất nỗ lực cố gắng bằng tất cả trách nhiệm và quyết tâm cao nhất để cùng đưa đất nước cất cánh. Chỉ nhìn từ hoạt động của Ban Kinh tế Trung ương trong năm qua, cũng có thể thấy rõ thực tế này.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của Ban Kinh tế Trung ương, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vương nhấn mạnh về việc Ban Kinh tế Trung ương triển khai hiệu quả, thiết thực Quy chế phối hợp công tác với Ban cán sự đảng Chính phủ và các cơ quan liên quan; phối hợp tốt trong nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, thẩm định, tổ chức được nhiều diễn đàn, hội thảo, triển lãm có quy mô lớn, phục vụ cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Hội nghị tổng kết của Ban Kinh tế có rất nhiều các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Ủy viên Trung ương, các Bộ trưởng, Trưởng ngành, các Bí thư Tỉnh ủy, Thường trực Ban Bí thư cho rằng điều đó thể hiện tất cả đều rất quan tâm tới các vấn đề kinh tế của đất nước, đến vị trí, vai trò của Ban Kinh tế Trung ương, dù mới được triển khai, mới được tái lập lại nhưng được toàn Đảng toàn dân quan tâm.
Đánh giá kết quả năm 2018, theo ông Vượng, là một năm đạt được khá nhiều thành tựu trên tất cả các mặt, các lĩnh vực, trong đó sự phát triển kinh tế - xã hội là một điểm sáng, hay có thể nói đó là kỳ tích khi đã hoàn thành 12 chỉ tiêu, trong đó có chỉ tiêu lâu nay chúng ta trăn trở rất khó thực hiện thì nay không những đã thực hiện được mà còn vượt mức, là tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,06%.
"Chúng tôi chỉ muốn nói đó là những thành tựu rất quan trọng tạo ra lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2019 và thực hiện trọn vẹn của nhiệm kỳ khóa XII này", Thường trực Ban Bí thư bày tỏ, "trong thành tựu đó, chúng tôi nghĩ rằng có sự đóng góp không nhỏ của Ban Kinh tế Trung ương trong năm vừa qua, đã có nhiều đổi mới và nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ được giao".
Những nỗ lực của Ban Kinh tế Trung ương được Thường trực Ban Bí thư nhắc đến, là đã hoàn thành một khối lượng đề án lớn, và một số đề án có tầm chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Năm 2018, chủ trì xây dựng và hoàn thành 7 đề án trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư (trong đó 4 đề án đã được Bộ Chính trị họp và thông qua và ban hành nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị và 3 đề án đã có báo cáo trình Bộ Chính trị để xem xét trong thời gian tới). Điển hình như Nghị quyết về Định hướng Xây dựng chính sách phát triển Công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 
Nhiều vấn đề lớn, khó và phức tạp cũng đang được Ban Kinh tế Trung ương nghiên cứu như chính sách đất đai, các chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và chiến lược phát triển năng lượng quốc gia...
Năm 2017, Ban Kinh tế Trung ương cũng đã thể hiện được bản lĩnh chính trị rất cao khi thực thi nhiệm vụ tham mưu chiến lược. 
"Tôi rất nhớ là tại Hội nghị Trung ương 5 của năm 2017, 3 đề án lớn được Ban Kinh tế Trung ương trình trong một kỳ họp để Ban Chấp hành Trung ương họp và ra Nghị quyết là Nghị quyết về Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết về Cơ cấu lại, Đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, Nghị quyết về Phát triển kinh tế tư nhân, và hiện nay chúng ta đang triển khai 3 nghị quyết này", ông Vượng cho biết, "trình Trung ương là cả quá trình nghiên cứu rất công phu rồi, nhưng đủ sức nặng để thuyết phục Trung ương ra nghị quyết này không đơn giản và tôi đánh giá cao Ban Kinh tế Trung ương vì đó đều là các nghị quyết rất khó".
Nói về việc Ban đã hoàn thành tốt công tác thẩm định, tham gia ý kiến đối với 129 đề án, dự án, về xây dựng thể chế và phát triển kinh tế - xã hội, theo Thường trực Ban Bí thư, các ý kiến thẩm định của Ban Kinh tế Trung ương được đánh giá có chất lượng, thể hiện rõ quan điểm, thẳng thắn và có trách nhiệm. "Chúng tôi cũng đánh giá rất cao một số đề án không những thể hiện về chuyện nghiên cứu sâu, còn thể hiện bản lĩnh của một Ban của Đảng", ông Vượng nhấn mạnh lại, "những thứ có thể rất khó quyết định, nhưng Ban Kinh tế Trung ương thể hiện được bản lĩnh, chính kiến rất rõ ràng".

 

Lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2019

VOV.VN - Năm 2018, kinh tế toàn cầu có dấu hiệu chững lại, kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận.
Năm 2018, kinh tế toàn cầu có dấu hiệu chững lại, thương mại tăng trưởng chậm hơn dự báo, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn biến phức tạp và nhiều khả năng tiếp tục kéo dài. Trong bối cảnh đó, kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận. Tăng trưởng kinh tế đạt trên 7% là mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây nhờ vào động lực chính là ngành công nghiệp chế biến chế tạo và ngành dịch vụ. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định năm 2019, kinh tế của đất nước tiếp tục tăng trưởng có thể đạt mức 7%.
Báo cáo của Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia cho thấy, năm vừa qua  kinh tế toàn cầu có rất nhiều biến động, trong đó, chiến tranh thương mại đã làm cho khối lượng thương mại toàn cầu giảm mạnh năm 2018 chỉ còn 4,2% và năm 2019 dự kiến chỉ tăng 4%.
lac quan ve tang truong kinh te viet nam trong nam 2019 hinh 1
Cần cải cách thể chế và môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn nhằm gia tăng đầu tư tư nhân.
Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận; tăng trưởng kinh tế vẫn đạt trên 7%, lạm phát được kiểm soát dưới 3,6%, lạm phát cơ bản duy trì ổn định dưới 1,5%. Các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư cao, nợ công và cân đối ngân sách được kiểm soát đảm bảo các mục tiêu Quốc hội đề ra.
Theo chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa, thành tựu tăng trưởng của năm 2018 sẽ là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong năm 2019: "Năm 2018, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao trong vòng 10 năm qua, có thể đà tăng trưởng này còn kéo dài sang năm 2019. Đó là nhờ vào những yếu tố quan trọng đó là tăng trưởng tiêu dùng năm 2018 khá mạnh, tăng trưởng xuất khẩu vượt xa so với kế hoạch chúng ta đề ra. Tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp nội địa cao hơn là doanh nghiệp nước ngoài về xuất khẩu. Một kỷ lục nữa đó là xuất khẩu của nông lâm, hải sản đạt con số 40 tỷ USD - đây là tốc độ tăng trưởng khá là cao".
Cải cách về kinh tế, đặc biệt là cải cách về môi trường đầu tư đã thông thoáng hơn. Việc Chính phủ kiên quyết cắt giảm các giấy phép tạo nhiều động lực cho phát triển… Do đó các chuyên gia cho rằng, đây sẽ là động lực tạo đà tăng trưởng cho GDP ở mức dự báo khoảng 7% trong năm 2019.
Theo ông Hoàng Công Tuấn, Trưởng bộ phận Nghiên cứu kinh tế Công ty chứng khoán MBS, bắt đầu từ năm 2012 đến nay, định hướng điều hành chính sách của Đảng, nhà nước hết sức đúng đắn. Cụ thể đó là việc không quá chú trọng vào tăng trưởng GDP ngắn hạn mà tập trung vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, cơ cấu lại nền kinh tế… Cùng với đó là chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, đổi mới mô hình tăng trưởng.
lac quan ve tang truong kinh te viet nam trong nam 2019 hinh 2
Trong năm 2019 này, kinh tế của đất nước tiếp tục tăng trưởng có thể đạt mức 7%.
Ông Hoàng Công Tuấn nhìn nhận: "Trong năm 2019 chúng tôi tiếp tục hết sức lạc quan với những định hướng, chính sách điều hành rất đúng và trúng của Đảng, Nhà nước. Qua đó, chúng ta có thể thấy, nền kinh tế của đất nước ổn định tăng trưởng ở mức rất cao. Chúng tôi kỳ vọng vào sức bật của khu vực tư nhân được giải phóng trong năm 2019 và năm 2020 cũng như những năm tiếp theo để tiếp tục khiến cho nền kinh tế Việt Nam hiệu quả hơn và tăng trưởng tốt hơn và bền vững hơn".
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần thực hiện cải cách thể chế và môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn nhằm gia tăng đầu tư tư nhân. Cùng với đó là việc tái cơ cấu kinh tế phải thực hiện triệt để, chuyển đổi sâu và rõ nét hơn mô hình tăng trưởng nhằm tận dụng được những cơ hội đến từ yếu tố quốc tế. Đó là xu hướng dịch chuyển sản xuất do tác động của chiến tranh thương mại; triển vọng tích cực từ các hiệp định thương mại thế hệ mới như: CPTPP, EVFTA và một số các FTAs khác... Lạm phát có thể kiểm soát ở mức khoảng 4% nếu việc điều chỉnh giá dịch vụ công được kiểm soát chặt chẽ.
Ông Trương Văn Phước, Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho rằng lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo và dịch vụ có giảm nhẹ trong năm qua nhưng vẫn là động lực chính của nền kinh tế. Bên cạnh đó, những cải cách về chính sách cũng cần có độ trễ để thẩm thấu và mang lại những hiệu quả thực chất hơn.
Theo ông Trương Văn Phước: "Năm 2019, chúng tôi dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ ở mức 7% đến từ việc phân tích và dự báo về tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Kinh tế thế giới bên cạnh việc lo ngại chiến tranh thương mại vẫn đang còn diễn ra thì vẫn có mặt thuận lợi và khó khăn. Diễn biến thị trường trong nước cũng được dự báo sẽ có nhiều hỗ trợ cho tăng trưởng GDP trong năm 2019 đó là: chính sách thúc đẩy kinh tế tư nhân, đổi mới mô hình tăng trưởng, môi trường kinh doanh tiếp tục cải thiện… Đó là những lý do chủ yếu  mà chúng tôi đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2019 đạt ở mức 7%, giữ lạm phát dưới 4%".
Mặc dù lạc quan vào tăng trưởng trong năm 2019 khoảng 7%, nhưng các chuyên gia cũng cho rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong tổng thể những thách thức lớn của nền kinh tế thế giới đang đối mặt. Cụ thể cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ tác động đến quy mô thương mại, từ đó gây khó khăn cho xuất khẩu của Việt Nam. Để khơi dậy được tiềm năng của nền kinh tế đòi hỏi sự điều hành linh hoạt của Chính phủ trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô để thích ứng với điều kiện toàn cầu như hiện nay./.
Nguyễn Hằng/VOV1