Thành Công
Thoạt đầu khi tiếp cận với chủ đề bài viết và biết
tuổi tác của ông gây cho tôi nhiều thiện cảm, ở độ tuổi xưa nay hiếm mà vẫn
trăn trở, tâm huyết, trách nhiệm với Tổ quốc, với dân tộc là đáng quý và trân
trọng... Nhưng thật buồn và thất vọng vô cùng khi đọc xong bài viết ấy, trong
đầu tôi luôn vấn vương câu hỏi, tại sao lại như vậy?. Thực tình câu hỏi đó cũng
khó cắt nghĩa, bởi nhận thức, nắm bắt thông tin, cách nhìn nhận, đánh giá từng
vấn đề của đời sống xã hội trong mỗi người là khác nhau. Nhưng dù thế nào đi
nữa thì hiện thực tình hình đất nước ta là không thể phủ nhận, không thể bóp
méo, bịa đặt. Vậy nên tôi xin được trao đổi với tác giả Nguyễn Hồng Thanh, một
vài ý trong nội dung bài viết bằng góc nhìn thực tế của một công dân đang sống
và được thụ hưởng những thành quả công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo trong 30 năm qua mang lại cho dân tộc.
Trong nhiều nội dung ông đề cập, tôi quan tâm nhất
đến vấn đề ông cho rằng " Đại hội
lần thứ 12 của Đảng nên từ bỏ CN M-L, bỏ CNXH, lấy học thuyết Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình". Đây
thực sự là nhận thức sai lầm, phiến diện, thiếu căn cứ lý luận và thực tiễn,
tại sao vây?, bởi vì, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh "ông gọi là học
thuyết Hồ Chí Minh" chúng ta nhận thấy: Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp
hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh không chỉ coi CN M-L là một học
thuyết khoa học và cách mạng mà còn là đạo đức và văn hóa. Chính vì vậy, Người
đặt niềm tin sâu sắc vào lý tưởng và con đường cách mạng mà C. Mác và Lênin đã
vạch ra, đồng thời cũng kế thừa những tinh hoa tư tưởng khác của nhân loại cũng
như giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Năm 1924 khi đọc sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
thấy “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 562). Trong cuốn Đường cách mệnh, Nguyễn
Ái Quốc viết rằng, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Về sau
trong nhiều tác phẩm, bài diễn văn, bài báo của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
khẳng định vai trò của CN M-L và yêu cầu cán bộ, đảng viên học tập, tu dưỡng và
vận dụng sáng tạo CN M-L. Người coi CN M-L là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam”
cho cách mạng VN. Người viết: “Đảng ta nhờ kết hợp được CN M-L với tình hình
thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”; “Học
tập CN M-L là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối
với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của CN M-L để áp dụng một
cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”, “Chúng ta phải nâng cao sự tu
dưỡng về CN M-L để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp CN M-L mà tổng kết
những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của
nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển
của cách mạng VN, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của
cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình
nước ta” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11. tr. 97, 611, 92)... Do đó, về
lôgic, và bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo, phát triển,
làm phong phú CN M-L và thống nhất với CN M-L chứ không có sự đối lập với CN
M-L như ông và một số người lầm tưởng cố tình phủ nhận nó. Những dẫn chứng trên
đây cũng bác bỏ luôn quan điểm phủ nhận vai trò của CN M-L đối với cách mạng
nước ta trong 85 năm qua do Đảng ta lãnh đạo. Cần phải nhận
thức rằng, từ thực tiễn công cuộc đổi mới trong 30 năm qua, có giai đoạn, thời
điểm Đảng ta cũng phạm phải những sai lầm, khuyết điểm. Nhưng những sai lầm
khuyết điểm đó đều xuất phát từ việc Đảng nhận thức và vận dụng không đúng với
tinh thần và bản chất của học thuyết Mác-Lênin, chứ không phải học thuyết đó
vốn có sai lầm. Điều này đã được công khai thừa nhận ở Đại hội VI, được khẳng
định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển 2011). Điều này càng khẳng định chắc chắn nếu "lấy học thuyết Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình", cũng chính là đã thừa
nhận CN M-L trong tiến trình cách mạng của nước ta, chứ không như ông và một số
người lầm tưởng, cố tình bác bỏ CN M-L.
Một vấn đề nữa, ông cho rằng "Đại hội lần thứ XII của Đảng nên từ bỏ CNXH". Đây là
một "đề nghị" sai lầm đáng phải phê phán, tại sao vậy? bởi vì nếu từ
bỏ CN M-L,
"lấy học thuyết Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình" thì trong
nhận thức của ông rất mâu thuẫn, những dẫn chứng ở trên đã bác bỏ điều đó. Hơn
nữa, chúng ta nhận thấy và khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là CN M-L ở
VN; cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; tinh
thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo là mẫu mực của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhưng trong khuôn khổ bài viết, không thể nói tất cả về điều đó, chúng tôi chỉ
có thể nói đến việc Hồ Chí Minh đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc, vận dụng và
phát triển sáng tạo một số luận điểm của CN M-L về CNXH trong bối cảnh lịch sử
cụ thể của cách mạng VN, Người viết "Mác đã xây dựng học thuyết của mình
trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà
châu Âu là gì? Đó chưa phải toàn thể của nhân loại" và cho rằng, "có gì
sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp xây dựng CNXH và giải phóng loài người" (Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.509-510; t.11, tr.612). Hồ Chí Minh lại chỉ rõ "trong
những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì,
đi theo tốc độ nào để tiến dần lên CNXH... Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng
về CN M-L để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp CN M-L mà
tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới dần dần hiểu được quy luật phát triển
của cách mạng VN, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách
mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta (Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.11,
tr.92). Thấm nhuần lời dạy của Người và căn cứ vào tình hình
thực tiễn của Đất nước, Đảng ta đã xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn,
đặc biệt gần đây nhất là các Văn kiện của Đại hội XI, chúng ta có thể phác họa
mô hình CNXH của VN với những nội dung chủ yếu như sau: Thứ nhất, mục
tiêu bao trùm và thể hiện bản chất của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng là: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Thứ hai, mục tiêu đó được cụ thể hóa
bằng những đặc trưng cơ bản trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là: Do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo; có quan hệ và hợp tác với
các nước trên thế giới. Các đặc trưng đó thể hiện một cách toàn diện những nét
căn bản nhất các lĩnh vực khác nhau của một xã hội, từ chính trị đến kinh tế,
văn hóa, xã hội và đối ngoại. Những vấn đề ấy cần được tiếp tục tìm hiểu và làm
sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn. Đây là một điều hết sức bình thường, bởi
nhận thức là một quá trình. Chính việc phát hiện những vấn đề mới nảy sinh và
tìm cách giải quyết chúng một cách thỏa đáng sẽ góp phần quan trọng vào việc
định hình ngày càng chính xác mô hình CNXH ở VN. Trên thực tế hiện nay, quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn ra với sự tham gia của tất cả
các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có các nước đang xây dựng CNXH
và hướng tới mục tiêu của CNXH. Một thực tế cho thấy, qua 30 năm đổi mới, Đảng
ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở nước ta và thu được những thành tựu đáng phấn khởi và tự hào. Nước
ta đã trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình do kinh tế liên
tục tăng trưởng khá trong nhiều năm; công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được
những kết quả ngoạn mực, tăng trưởng kinh tế có bước phát triển, năm sau cao
hơn năm trước, nhất là năm 2015 tăng 6,68% (năn 2014, số hộ nghèo chỉ còn 6%),
được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu trong thực hiện Mục
tiêu thiên niên kỷ (6/8 mục tiêu). Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được giữ vững; vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng
cao, quan hệ đối ngoại được mở rông, nhất là với các nước lớn...tạo tiền đề
phát triển, hội nhập và bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; nước ta được xem
là nước an toàn nhất thế giới, là địa chỉ hấp dẫn khách du lịch và nhà đầu tư
nước ngoài càng khẳng định tính đúng đắn của con đường xây dựng, phát triển đất
nước của Đảng ta.
Xây dựng CNXH ở VN đã đạt được những thành tựu
kể trên, nhưng chúng ta cũng thừa nhận, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém cả
về kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức, hay sự lãnh đạo, quản lý đã được Đảng ta
chỉ ra và được nhân dân tham góp vào dự thảo Văn kiện trình Đại hội XII của
Đảng. Do vậy không vì những khuyết điểm, yếu kiếm đó để phủ nhận những thành
tựu cơ bản và lớn lao đang làm biến đổi sâu sắc đất nước. Xây dựng con đường xã
hội chủ nghĩa để hướng tới một xã hội tốt đẹp, thật sự vì con người, vì lợi ích
quốc gia, dân tộc thì tại sao lại phải từ bỏ nó. Do đó ông và một số người phê
phán con đường XHCN ở nước ta, chính là đã cố tình phủ nhận lịch sử, quay lưng
lại với thực tiễn, thành quả phát triển đất nước, thể hiện mưu đồ chính trị xóa
bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của
ĐCS VN. Tôi luôn vững tin khẳng định, nhân dân ta mãi mãi tin tưởng vào sự lãnh
đạo Của Đảng, lịch sử đất nước, dân tộc đang phát triển trên con đường đúng
đắn, không thể một thế lực nào có thể cản trở, phá hoại, vì đó là con đường phù
hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, đáp ứng được nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân trong thời kỳ mới.
No comments:
Post a Comment