Friday, April 26, 2013

Không nên đơm đặt


QĐND - Báo chí Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, đóng góp rất tích cực vào công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong dịp kỷ niệm 86 năm Ngày báo chí cách mạng vừa qua, báo chí và những người làm báo Việt Nam được cả xã hội động viên, tôn vinh. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình báo chí và sự trưởng thành về mọi mặt của đội ngũ những người làm báo Việt Nam cũng như những đóng góp to lớn của báo chí góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Thế nhưng, Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) lại đơm đặt rằng: "Ở Việt Nam, không có tự do báo chí". Một trong những lý do mà RSF nêu ra là: Việt Nam dùng "luật hình sự trấn áp tự do báo chí" và hiện vẫn có "18 nhà báo mạng đang bị giam giữ".

Ảnh minh họa/internet.
RSF cần hiểu rằng, Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy cao nhất vai trò của mình vào sự phát triển của xã hội. Các cơ quan báo chí và những người làm báo ở Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí Việt Nam hoàn toàn được tự do theo khuôn khổ pháp luật Việt Nam...
Nhà nước Việt Nam chỉ ngăn cấm, xử lý những tổ chức và cá nhân cố tình lợi dụng tự do báo chí, tự do internet để chống phá nền dân chủ XHCN; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; gây rối an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; vi phạm đạo đức, đi ngược lại thuần phong mỹ tục và các vi phạm pháp luật khác. Những đối tượng mà RSF gọi là "nhà báo mạng" đang bị giam giữ, thực chất là những người lợi dụng tự do báo chí để đưa tin, viết bài tuyên truyền, kích động chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước; cấu kết với nhóm phản động lưu vong nước ngoài để tìm cách lật đổ chính quyền nhân dân... Hành vi của họ đã đi ngược lại lợi ích của dân tộc Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Trong khi tung hô về tự do báo chí, đặt báo chí trên pháp luật… RSF cố tình lờ đi trách nhiệm xã hội của các cơ quan báo chí và những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Đa số nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đều hiểu rõ và ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và tự do báo chí ở Việt Nam. Ý kiến của RSF cho rằng, Việt Nam không có tự do báo chí, không có gì khác hơn là sự đơm đặt thiếu thiện chí.
Kim Ngọc

Bình yên trên vịnh Bắc Bộ


QĐND Online - Chuyến tuần tra liên hợp giữa Hải quân nhân dân Việt Nam và Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trên vùng biển vịnh Bắc Bộ đã thành công tốt đẹp. Ấn tượng về chuyến tuần tra liên hợp lần thứ 11 vào hai ngày 19 và 20-6 sẽ không phai trong ký ức của cán bộ, chiến sĩ, thủy thủ hai nước. Sau chuyến tuần tra liên hợp trên biển, hai bên hẹn gặp lại nhau vào dịp cuối năm 2011.
Bắt đầu từ tháng 4-2006, hải quân hai nước Việt Nam và Trung Quốc triển khai hoạt động tuần tra chung trên vùng biển vịnh Bắc Bộ theo Thỏa thuận tuần tra liên hợp ký kết giữa hai nước vào tháng 10-2005, mỗi năm hai lần. Chuyến tuần tra liên hợp tổ chức tháng 6 năm nay là chuyến lần thứ 11. Nó được lên kế hoạch, thống nhất từ đầu năm 2011. Với nỗ lực duy trì sự ổn định, bình yên trên vùng biển, chuyến tuần tra liên hợp và sau đó biên đội tàu của Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục hành trình cập cảng thành phố Trạm Giang (tỉnh Quảng Đông) thực hiện chuyến thăm Trung Quốc đúng kế hoạch.

Tàu HQ376 của Hải quân nhân dân Việt Nam

Tham gia chuyến tuần tra liên hợp năm nay, Hải quân nhân dân Việt Nam cử biên đội tàu gồm hai tàu tên lửa hiện đại mang số hiệu HQ375 và HQ376. Hai tàu này cùng chủng loại, có lượng giãn nước 510 tấn, dài 56,9m, rộng 13m, mớn nước 2,6m; mang một khẩu pháo 176mm, 2 pháo AK-630, 4 hệ thống phóng tên lửa đối hải Kh-35, có khả năng phóng cùng lúc 16 quả. Những lần tuần tra trước, chúng ta chỉ đưa biên đội tàu quét mìn hoặc tàu hộ vệ tên lửa tham gia tuần tra liên hợp cùng với bạn. Hải quân Trung Quốc trong chuyến tuần tra liên hợp lần này cử biên đội tàu gồm hai tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Hậu Tân mang số hiệu 753 và 755. Tàu có lượng giãn nước 478 tấn, dài 62,8m, rộng 7,2 mét, mớn nước 2,4m; trang bị hai hệ thống phóng tên lửa, mỗi hệ thống 4 quả tên lửa đối hải YJ-1 (C-801) tầm bắn 40km, hai bệ với 4 khẩu pháo phòng không 37mm và hai bệ với 4 súng phòng không 14,5mm tầm bắn 7km. Các tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Hậu Tân của hải quân Trung Quốc đã nhiều lần tham gia tuần tra liên hợp với hải quân nước ta. Tàu 755 và tàu cùng loại mang số hiệu 756 đã sang thăm Việt Nam vào tháng 12-2009 sau khi kết thúc chuyến tuần tra liên hợp lần thứ 8.

Cán bộ, thủy thủ tàu HQ375 điều khiển tàu hành trình trên tuyến tuần tra liên hợp.

Biên đội tàu tên lửa của Hải quân nhân dân Việt Nam rời cảng Đà Nẵng hành quân đến vị trí tập kết xuất phát tuần tra liên hợp vào chiều 18-6. Biên đội trưởng, Thượng tá Nguyễn Đình Hùng chỉ huy hai con tàu hành trình với tốc độ trung bình 12 hải lý/giờ đến vị trí tập kết đúng kế hoạch. Anh Hùng là một trong những cán bộ có nhiều năm nhất tham gia các chuyến tuần tra liên hợp với hải quân Trung Quốc, nên có nhiều kinh nghiệm. Anh cho biết: “Những năm trước, sau mỗi chuyến tuần tra liên hợp hai bên đều tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá kết quả tuần tra, trên cơ sở đó thống nhất các hoạt động năm sau, bảo đảm luôn đổi mới nội dung hoạt động. Ngoài nhiệm vụ tuần tra hai bên còn trao đổi, huấn luyện, nâng cao trình độ tác nghiệp trên biển. Riêng năm 2010, kết thúc mỗi chuyến tuần tra, hai bên tổ chức diễn tập tìm kiếm cứu nạn trên biển và đạt kết quả tốt đẹp. Năm nay, dự kiến sau tuần tra, hai bên sẽ tổ chức diễn tập chống cướp biển, với những nội dung như ngăn chặn, truy bắt bọn cướp biển, cứu tàu thuyền, người và tài sản của ngư dân... Để tham gia phối hợp diễn tập với hải quân bạn đạt kết quả tốt, Đoàn M62 (Vùng D hải quân) đã tổ chức cho biên đội huấn luyện thường xuyên, huấn luyện bổ sung đầy đủ, chu đáo, thực hành thuần thục”.
Đại tá Tống Xuân Quân, Chính ủy Đoàn M62 khẳng định, lực lượng tham gia chuyến tuần tra liên hợp có chất lượng chính trị cao, 100% cán bộ, chiến sĩ, thủy thủ đã được quán triệt đầy đủ và xác định tốt nhiệm vụ được giao. Nhiều đồng chí có hoàn cảnh đặc biệt, đã gác chuyện riêng tư để lên đường, tham gia chuyến tuần tra. Như Thiếu úy Lê Văn Dũng, trắc thủ pháo tàu, sắp chuẩn bị tổ chức lễ cưới, đã in thiếp mời bạn bè, nhưng vẫn yên tâm ra khơi làm nhiệm vụ. Thượng úy Nguyễn Văn Hiền, Chính trị viên tàu HQ-375, vợ đi làm cách xa nhà 40km, sau nhiều năm hai vợ chồng cố gắng mới có thai đứa con đầu lòng. Anh đã thuê nhà cho vợ ở thành phố Nha Trang để đến cơ quan làm việc gần hơn, anh yên tâm tham gia cùng tàu làm nhiệm vụ tuần tra liên hợp với bạn.


Biên đội hai tàu tuần tra của Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc 


Việc tuần tra liên hợp trên các điểm và tuyến trên biển đã được hải quân hai nước xác định. Hai biên đội tàu hiệp đồng chặt chẽ, chuẩn xác. Khi đi vào vùng biển có nhiều mục tiêu, bạn chủ động thông báo cho ta nắm được và ta cũng vậy, thông báo cho bạn tình hình trên biển. Các hoạt động chỉ huy, thông báo đều bằng điện đài vô tuyến điện, song hai biên đội đều hiệp đồng tốt, đúng kế hoạch. Trên đường tuần tra, hai biên đội thực hành trao đổi thông tin liên lạc thông qua tín hiệu ánh đèn. Do thời tiết xấu, phía bạn đề nghị và hai bên nhất trí hủy bỏ nội dung diễn tập chống cướp biển. 
Chuyến tuần tra liên hợp lần thứ 11 được Thiếu tướng Yêu Chí Lâu, Phó tư lệnh Hạm đội Nam Hải (Trung Quốc) đánh giá là đạt hiệu quả, khẳng định sự hợp tác tích cực giữa hải quân hai nước và mong muốn mở rộng hơn các tuyến tuần tra chung. Đại tá Nguyễn Văn Kiệm, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân cũng đánh giá cao kết quả chuyến tuần tra liên hợp lần này, nhất là kết quả phối hợp về thông tin liên lạc. Bên cạnh việc củng cố, tăng cường tình hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau giữa hải quân hai nước, Phó tham mưu trưởng Nguyễn Văn Kiệm còn cho rằng, hoạt động tốt trên biển, hải quân hai nước cần phối hợp chặt chẽ, tôn trọng lẫn nhau để không chỉ vịnh Bắc Bộ, mà còn để cho biển Đông luôn bình yên!
Bài và ảnh: Đình Xuân

Hoạt động của tàu Hải quân nhân dân Việt Nam tại Trung Quốc


QĐND Online - Sau khi chào xã giao Bộ tư lệnh Hạm đội Nam Hải và chính quyền thành phố Trạm Giang (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), từ ngày 22 đến 23-6, hai tàu HQ375 và HQ376 của Hải quân nhân dân Việt Nam đang ở thăm Trung Quốc được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng phía bạn tổ chức di chuyển đến nơi trú ẩn tránh cơn bão số 2. Tàu di chuyển sâu vào vịnh Trạm Giang gần 10km và tổ chức neo đậu, chằng buộc tránh gió bão, bảo đảm an toàn.

Giao lưu thi đấu thể thao giữa hải quân hai nước
Ngày 24-6, ngay sau khi bão tan, hai tàu Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục hành trình về neo đậu tại cảng Trạm Giang và tổ chức các hoạt động theo kế hoạch đã được hai bên thống nhất. Đoàn cán bộ, thủy thủ tàu Hải quân nhân dân Việt Nam đã đến tham quan tàu của Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và đoàn của hải quân bạn tham quan tàu của hải quân ta. Cán bộ, thủy thủ hải quân hai nước tham gia các hoạt động giao lưu thể thao: thi đấu kéo co, bóng đá. Mặc dù trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, song các vận động viên của hải quân hai nước vẫn thi đấu nhiệt tình, tích cực, nhận được sự cỗ vũ sôi nổi của cán bộ, chiến sĩ, thủy thủ và nhân dân địa phương.

Đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam tham quan và tặng quà lưu niệm tàu Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Tối 24-6, tàu Hải quân nhân dân Việt Nam do Đại tá Nguyễn Văn Kiệm, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chủ trì tổ chức chiêu đãi trọng thể đại biểu cán bộ, thủy thủ Hạm đội Nam Hải và lãnh đạo chính quyền thành phố Trạm Giang tại tàu HQ375. Dự tiệc chiêu đãi phía Trung Quốc có Thiếu tướng Trương Văn Đán, Phó tham mưu trưởng Hạm đội Nam Hải và Phó thị trưởng thành phố Trạm Giang (tỉnh Quảng Đông) Trần Ngạn Minh cùng nhiều cán bộ, sĩ quan cao cấp của Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Tin, ảnh: Đình Xuân

Kêu gọi ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Việt


Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã ra lời kêu gọi tới nhân dân trong nước, bạn bè quốc tế ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam nhân kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam.
Lời kêu gọi nhấn mạnh, ngày 10/8/1961, máy bay của Không lực Hoa Kỳ bắt đầu rải hóa chất độc, mở màn cho chiến dịch khai quang suốt trong 10 năm ở miền Nam Việt Nam, hủy hoại môi trường, sinh thái và sức khỏe con người Việt Nam.
Hơn 3 triệu hécta rừng núi, đồng ruộng, gần 26.000 thôn bản đã bị rải chất độc hóa học, đến nay vẫn còn những “điểm nóng” ô nhiễm chất dioxin.
Gần 5 triệu người Việt Nam đã bị phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin, có khoảng 3 triệu người là nạn nhân, nhiều nạn nhân là trẻ em thế hệ thứ hai, thứ ba. Hàng vạn người đã chết trong đau khổ. Hàng chục vạn trẻ em bị dị dạng, dị tật bẩm sinh, sống đời sống thực vật, không có một giây phút sống như người bình thường. Nhiều phụ nữ không được hưởng hạnh phúc làm vợ, làm mẹ.
Các nạn nhân chất độc da cam/dioxin chính là những người nghèo nhất trong những người nghèo, những người đau khổ nhất trong những người đau khổ
Nhân ngày mở đầu 50 ngày cao điểm của phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam,” Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam kêu gọi nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam trong cuộc sống, trong cuộc đấu tranh đòi công lý.
Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam yêu cầu phía Mỹ phải có trách nhiệm trước những thiệt hại họ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam.

Vẫn cố tình hiểu sai


QĐND - Trên mạng internet gần đây, một nhân vật là Võ Trần Nhật, tự xưng đại diện cho cái gọi là “Ủy ban Bảo vệ quyền làm người Việt Nam” lại rêu rao rằng, Việt Nam đưa ra luận điểm “vi phạm an ninh quốc gia” nhằm “đàn áp các nhà hoạt động cho nhân quyền và dân chủ”.
Điều 3 Luật An ninh quốc gia của Việt Nam đã chỉ rõ, an ninh quốc gia được hiểu là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia là những nhân tố bên trong, bên ngoài lãnh thổ Việt Nam có khả năng thực tế gây nguy hại cho an ninh quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Như vậy, có thể thấy quan điểm của Việt Nam về vấn đề an ninh quốc gia và hành vi vi phạm an ninh quốc gia là rất rõ ràng. Mục tiêu của việc ban hành Luật An ninh quốc gia nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội là hòa bình, ổn định và phát triển.
Những người mà ông Võ Trần Nhật gọi là “chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền" đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam. Các cơ quan chức năng của Việt Nam xử lý những công dân vi phạm pháp luật là việc làm cần thiết và bình thường mà mọi quốc gia trên thế giới đều tiến hành để bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự xã hội và an toàn cho người dân. Việt Nam là một nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam, quyền tự do bày tỏ chính kiến của công dân được pháp luật bảo đảm. Ông Võ Trần Nhật đang cố tình hiểu sai pháp luật Việt Nam.
Kim Ngọc

Người Pháp viết về việc kỷ niệm 50 năm thảm hoạ da cam ở Việt Nam


André Bouny, người thành lập và đứng đầu Uỷ ban quốc tế Ủng hộ nạn nhân chất đôc da cam ViệtNam (CIS), tác giả cuốn Chất độc da cam – Thảm hoạ Việt Nam, vừa viết bài « Kỷ niệm 50 năm ngày Mỹ lần đầu tiên rải chất độc da cam ở Việt Nam » đăng trên báo Agoravox ngày 7/6/2011. VAVA xin trích dịch bài báo này.
Trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, vụ rải chất độc hoá học đầu tiên đã diễn ra vào thứ Năm, ngày 10 tháng 8 năm 1961, ở tỉnh Kon Tum, miền trung Việt Nam. Đó là cuộc thử nghiệm cuối cùng, mở đầu cho Chiến dịch Ranch Hand diễn ra vài tháng sau đó : Cuộc chiến tranh hoá học lớn nhất lịch sử nhân loại.
Chất độc hoá học được sử dụng để phá huỷ rừng nhiệt đới, nhằm ngăn chặn những người Việt Nam theo chủ nghĩa độc lập ẩn náu và biến hoá trong rừng, và cũng nhằm huỷ hoại và đấu độc các nguồn thực phẩm với mục đích triệt nguồn sinh sống của các chiến sĩ cũng như những người dân bị cho là đã nuôi dưỡng họ và cung cấp thông tin cho lực lượng kháng chiến.
Ngày 10/8/2010, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, bà Tòng Thị Phóng, nói rằng Việt Nam có 4 triệu người bị phơi nhiễm chất độc da cam
Tuy chưa được nhiều người biết đến, nhưng hậu quả đáng sợ đối với sức khoẻ con người và môi trường của cuộc chiến tranh hoá học này lại là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Dẫu vậy, nếu như nửa thế kỷ sau đó dioxin trong chất độc da cam đã có thể đi vào rau của các bà mẹ Việt Nam để họ đẻ ra những đưa con có hình hài không giống con người, thì thông tin về việc sử dụng và sự tồn tại dai dẳng của loại chất độc này vãn chưa chọc thủng được chiếc mộc « thông tin đại chúng qui ước ».
Hy vọng ngày 10 tháng 8 năm 2011, là ngày có tính biểu trưng này (Ngày vì nạn nhân chất độc da cam) sẽ là dịp để các phương tiện thông tin đại chúng thể hiện vai trò của chúng, đó là phải nói hết sự thật, nói thường xuyên và sâu sắc, để cảnh báo công luận, để một ngày nào đó, công lý phải được thực thi.
Điều quan trọng là việc sử dụng « chất diệt cỏ », cái mà người ta đã bí mật thí nghiệm trong hàng thập kỷ để biến thành một thứ vũ khí huỷ diệt hàng loạt (ADM) này phải được vạch trần toàn bộ và phải được các kênh truyền hình của chúng ta giải thích cho công chúng, đó là một cách để dân chúng thoát khỏi sự vô nghĩa của một loại vũ khí ru ngủ hàng loạt.
Tuy nhiên, phải thừa nhận là báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình cũng đã bắt đầu đề cập đến chủ đề này. Vả lại, làm sao mà một phương tiện truyền thông lại có thể ngang nhiên phớt lờ hàng triệu nạn nhân, trong khi phần lớn thời lượng thông tin vẫn được dành cho các sự kiện thực ra không phải là sự kiện ?
Việt Nam đã tốn nhiều công sức để làm cho dự luận quốc tế biết và hiểu về hậu quả của chất độc da cam, về sự tồn tại của hàng trăm nghìn nạn nhân nhỏ bé vô tội, vì chúng sinh ra sau chiến tranh nhiều thế hệ. Chúng đã làm gì để không được nhận một trang tin nào nói về chúng trên các bức điện của các hãng tin chỉ vội đưa những hình ảnh buồn tẻ của giới chính trị ? Một hội nghị quốc tế lần thứ hai sẽ diễn ra vào ngày 8 và 9 tháng 8 sắp tới tại Hà Nội. Hội nghị đó sẽ tập hợp 150 đại biểu, trong đó có 80 khách nước ngoài, nạn nhân, nhà khoa học và đại diện các tổ chức quốc tế muốn luật pháp quốc tế phải được thi hành, không có sự phân biệt.
Hoa Kỷ chưa bao giời thừa nhận trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Washington đã đưa ra một danh sách các chứng bệnh có liên hệ với chất độc da cam được nhiều người chú ý (nhưng danh sách này chỉ có giá trị đối với các cựu chiến binh Mỹ), và danh sách đáng buồn này cứ kéo dài không ngừng cùng với thời gian. Bản báo cáo Stellman (mang tên nhà khoa học Mỹ Jeanne M. Stellman) cho biết, có tới 4,8 triệu người bị phơi nhiếm trực tiếp chất độc da cam ở các làng mạc của Việt Nam. Nước làm lan rộng khu vực ảnh hưởng của chất độc, và chất độc đó nhiễm vào chuỗi thực phẩm. Giờ đây, đến lượt thế hệ thứ tư bị ảnh hưởng và sự tàn phá đối với sức khoẻ con người vẫn còn đó, tai hoạ.
Các nạn nhân Việt Nam đã tiến hành các vụ kiện ở Mỹ, nhưng các vụ kiện này đều đi đến kết cục là bị chối từ về pháp lý.
Hiện đang có sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và Việt Nam xung quanh vấn đề này. Một nhóm đối thoại Việt-Mỹ đã dự trù một khoản trợ giúp 300 triệu đô la trong 10 năm (tức là 30 triệu đô la một năm), trong khi ngân sách của Mỹ năm 2010 dự kiến chi cho các cựu chiến binh của họ bị nhiễm chất độc da cam là trên 11 tỷ đô la...Số cựu chiến binh Mỹ bị nhiễm độc và bị đau ốm hiện nay là khoảng 200.000 người, trong khi người Việt Nam có tới hàng triệu, phải sống ở những vùng đất bị nhiễm độc. Hơn nữa, sự trợ giúp cho các nạn nhân Việt Nam chưa phải là đã đủ, mà còn phải tẩy độc cho đất đai của họ. Chưa có một kỹ thuật nào mà người ta đã biết cho phép làm điều đó ở cấp độ cả nước.
Thế là người ta nêu lên các « điểm nóng ». Chẳng thèm đếm xỉa đến hàng triệu héc-ta đã bị thấm nước (có khi đến 10 lần, hoặc hơn nữa), người ta đưa ra con số 28 « điểm nóng ».
Chưa hết, chỉ có 3 trong số các điểm nóng nói trên được xem xét (phải nói là như thế đã là phá kỷ lục thế giới), vì độ nhiễm độc của chúng rất cao. Đó là các căn cứ cũ của Mỹ : Biên Hoà, Phù Cát, Đà Nẵng.
.....
Tháng 5 vừa qua hai cựu chiến binh Mỹ cho biết, năm 1978 quân đội Mỹ đã chôn một kho chất độc da cam (khoảng 50.000 lít) trong căn cứ quân sự Camp Carroll của Mỹ ở Chilgok, Hàn Quốc, cách Xê-un 300 km về phía đông nam. Một cựu chiến binh khác của Mỹ tuyên bố, năm 1963-1964, anh ta đã tham gia chôn « hoá chất » ở căn cứ Camp Mercer, thuộc vùng Bucheron, gần thủ đô Xê-un. Điều đó gợi cho chúng ta thấy là, nếu như chất độc da cam đã được sử dụng để cố tình phạm tội diệt môi trường trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thì loại chất độc này cũng đã được sử dụng ở Lào và Cam-pu-chia. Chính các lĩnh Mỹ, cũng như binh lính các nước đồng minh của Mỹ là Hàn Quốc, Niu Di-lân, Ô-xtrây-li-a, Thái Lan, cũng đã bị phơi nhiễm. Đương nhiên loại chất độc hại này cũng gây tác hại lớn ở những nơi nó được sản xuất, không phải chỉ ở Mỹ, mà còn ở Niu Di-lân, cũng như những nơi chúng được tàng trữ, như ở Phi-líp-pin, hoặc trên đảo Johnston ở Thái Bình Dương trước khi được huỷ dưới biến, đấy là chưa kể không biết bao nhiêu nơi khác trên khắp hành tinh này được sử dụng làm nơi thử nghiệm.
Đúng, chất độc da cam là thủ phạm gây ra nhiễm độc xuyên lục địa.

Không thể xuyên tạc và phủ nhận quyền tự do báo chí ở Việt Nam


QĐND - Một quốc gia độc lập, tất cả công dân đều có quyền tự do trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Quyền tự do này đã được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và được thực thi trong thực tiễn. Vậy mà vẫn có người không hiểu hoặc cố tình không hiểu cho rằng, ở đó không có tự do báo chí. Một quốc gia có tốc độ phát triển internet vào loại nhanh nhất thế giới, thế  mà cũng có người xuyên tạc rằng “internet đã bị hạn chế ở đây”. Quốc gia nói trên chính là đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Hiến pháp, luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí , có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi công dân được thực thi trong cuộc sống theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí, Luật Xuất bản và Chính phủ cũng đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho báo chí Việt Nam phát triển.
Điều 2 của Luật Báo chí ghi rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của  mình. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”. Điều 4 của Luật Báo chí cũng khẳng định, mọi công dân Việt Nam đều có quyền “Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và các tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin”.
Như vậy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam đã được bảo đảm bằng hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và minh bạch. Điều này, nhiều nước trên thế giới chưa có được. 
Trong mấy năm gần đây, báo chí Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về loại hình và số lượng cơ quan báo chí,  bao gồm báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Đến nay, cả nước có khoảng  750 cơ quan báo chí với hàng nghìn ấn phẩm (bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài). Đó là chưa kể tới hàng nghìn trang thông tin điện tử, hàng vạn blog của cá nhân… Các cơ quan báo chí ở Việt Nam đều được pháp luật bảo hộ, đều có đầy đủ các thông tin cần thiết bảo đảm cho mọi công dân đều có thể gửi tin, bài, ảnh, tác phẩm báo chí cho tòa soạn.  Khác với một số tờ báo của nước ngoài, báo chí Việt Nam một mặt thông tin đầy đủ, chính xác mọi mặt hoạt động của xã hội, một mặt là diễn đàn của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Báo chí Việt Nam là nơi để công dân Việt Nam và cả bạn bè quốc tế bày tỏ tâm tư, nguyện vọng với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo chí Việt Nam còn là kênh phản biện quan trọng về những chủ trương chính sách kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Thực tế, thời gian qua nhiều vấn đề quan trọng của đất nước, qua sự phản biện của báo chí đã giúp cho các cơ quan của Nhà nước thay đổi chính sách, thận trọng trước khi quyết định như: Dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam, dự án thay nước Hồ Tây, dự án xây dựng khách sạn ở Công viên Thống Nhất (Hà Nội), xây dựng đường trục Thăng Long…
Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà báo, Việt Nam có Hội Nhà báo Việt Nam và các tổ chức Hội Nhà báo các địa phương với hàng vạn hội viên. Hội Nhà báo Việt Nam là thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn Báo chí ASEAN (CAJ) trong nhiều năm qua, tham gia tích cực và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của báo chí khu vực và thế giới. 
Những người cho rằng “ở Việt Nam, internet bị hạn chế, bị ngăn cấm” có lẽ họ chưa đến Việt Nam hoặc chưa biết rằng, Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu trong khu vực về phát triển internet, với hệ thống hạ tầng ngày càng hiện đại, phát triển đến mọi vùng đất nước, với hơn 28 triệu thuê bao (chiếm 31,5% dân số). Nghị định số 55/2001/NĐ-CP, ngày 23-8-2001 của Chính phủ Việt Nam đã  quy định: “Không ai được ngăn cản quyền sử dụng hợp pháp các dịch vụ internet…”. Thực tế tại Việt Nam đã khẳng định Nhà nước Việt Nam  không ngăn cấm internet. Chúng ta chỉ ngăn cấm những tổ chức và cá nhân nào lợi dụng internet để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục và các vi phạm pháp luật khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lại có ý kiến quy chụp rằng “Phải có báo tư nhân mới là biểu hiện cụ thể của tự do báo chí”. Xin thưa lại với những tác giả của những ý kiến này rằng: Điều căn bản cốt yếu nhất của tự do báo chí là báo chí có thực sự là diễn đàn phản ánh chân thực, đầy đủ được tiếng nói của mọi người dân, trên mọi phương diện của đời sống hay không. Những tờ báo hiện nay của các cơ quan Đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp… ở Việt Nam đã phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện vọng chính đáng của tất cả các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, việc ra báo tư nhân là không cần thiết. Mặt khác, không phải cứ có báo tư nhân mới có tự do báo chí.
Báo chí Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, cùng nhân dân Việt Nam  trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quyền tự do báo chí của người dân Việt Nam, của các nhà báo Việt Nam được pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Đó là thực tế hiển nhiên không thể xuyên tạc và phủ nhận.
Đỗ Phú Thọ

"Ngựa quen đường cũ"


QĐND - Thời gian qua người ta lại thấy trên mạng internet phát tán một số bài viết, bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Hồng Quang xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Người dân TP Hồ Chí Minh, nhất là những người hoạt động tôn giáo chân chính chẳng lạ Nguyễn Hồng Quang kẻ tự xưng là “mục sư” khi thì đội lốt “tổng thư ký” cái gọi là “giáo hội Tin Lành Mennonite”, lúc lại mang danh “cố vấn Hội Thánh Mennonite”... Thực tế Quang liên tiếp có hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, tập hợp một số phần tử bất mãn chống lại các chủ trương, chính sách của Nhà nước, xâm hại đến lợi ích của cộng đồng và chống đối chính quyền… Năm 2004, Nguyễn Hồng Quang đã phải ra hầu tòa. Năm 2005, Nguyễn Hồng Quang ra tù nhưng "ngựa vẫn quen đường cũ".
Sau khi mục sư Nguyễn Quang Trung, Hội trưởng Hội thánh Mennonite Việt Nam không thừa nhận tư cách Phó hội trưởng kiêm Tổng thư ký do Quang có những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại giáo luật… và chính thức loại Quang ra khỏi Hội thánh Mennonite Việt Nam, y đã đẻ ra cái gọi là “Giáo hội Tin lành Mennonite Việt Nam” rồi tự phong cho mình chức mục sư Hội trưởng và dùng căn nhà tại số C5/1H đường Trần Não, phường Bình Khánh, quận 2, TP Hồ Chí Minh làm nơi lôi kéo, tụ tập giảng đạo… Được một thời gian, do sức ép của dư luận trong nhóm tín đồ Tin lành này nên Quang thôi chức “Hội trưởng” và “bổ nhiệm” vợ mình là Lê Thị Phú Dung lên thay. Thực chất đây là chiêu “ve sầu thoát xác” của Quang bởi trên thực tế mọi hoạt động của nhóm Tin lành này vẫn do Quang đứng đằng sau điều hành…
Qua khai thác tài liệu và lời khai của một số “tín hữu” trong cái gọi là “Giáo hội Tin lành Mennonite Việt Nam” do Quang lập ra, các cơ quan chức năng phát hiện Quang đã trực tiếp móc nối với các tổ chức phản động lưu vong, trong đó có tổ chức khủng bố Việt Tân nhằm tiến hành các hoạt động chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quang thường xuyên thu thập thông tin, tài liệu, viết bài phát tán trên internet với nội dung kích động, lôi kéo một số người nhẹ dạ cả tin đi theo các tổ chức do y lập ra để chống đối Nhà nước. Nhiều bài viết bóp méo, xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền; đồng thời đả kích, phản bác lại đường lối, chính sách của Nhà nước ta...
Sau nhiều lần giáo dục, thuyết phục không thành, các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam buộc phải có các biện pháp cứng rắn đối với Quang. Việc các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp xử lý theo đúng quy định đối với một công dân vi phạm pháp luật là điều bình thường. Ở đây hoàn toàn không có chuyện đàn áp tôn giáo.
Quốc An

Thế trận lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc


QĐND - Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ, một trong những nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là tập trung “Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”.
Để xây dựng “thế trận lòng dân”, trước hết phải nhận thức rõ nội dung yếu tố lòng dân. Đây là vấn đề thuộc phạm trù ý thức xã hội, thường đi liền và đặt trong mối quan hệ với khái niệm đất nước, Tổ quốc, Nhà nước… Nội dung cơ bản của lòng dân là lòng yêu nước thương nòi, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; là lòng tin của nhân dân vào các chủ trương, chính sách, thể chế chính trị… của giai cấp lãnh đạo đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy, các triều đại phong kiến tiến bộ rất coi trọng ban hành các chủ trương chính sách để “an dân”, quy tụ lòng dân, lấy dân làm gốc. Các chính sách đúng đắn đã quy tụ được lòng dân, phát huy được sức mạnh của toàn dân trong giành và giữ vững nền độc lập, thống nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngày nay, quy tụ lòng dân, xây dựng “thế trận lòng dân” để đáp ứng yêu cầu tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh (QP-AN), bảo vệ Tổ quốc chính là quá trình xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho mọi tầng lớp nhân dân không chỉ yêu quý thiết tha chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn gắn bó với Đảng, với chế độ XHCN; có ý thức tự giác về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi công dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Muốn vậy, phải tiến hành đồng bộ nhiều nội dung, giải pháp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội và QP-AN… với sự tham gia tích cực của các cấp, ngành và mọi tầng lớp nhân dân.
Trước hết, xây dựng “thế trận lòng dân” là phải nâng cao nhận thức về tình hình nhiệm vụ QP-AN, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân. Thực tiễn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cho thấy, nhờ làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, thống nhất nhận thức và hành động của toàn dân, chúng ta đã phát huy cao nhất sức mạnh vật chất – tinh thần của toàn dân tộc, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh để đánh thắng kẻ thù xâm lược có sức mạnh và tiềm lực vượt trội, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin hiện nay, cần tập trung củng cố, nâng cao chất lượng toàn diện các hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục, bảo đảm các thông tin chính thống của Đảng và Nhà nước, của các cấp ủy, chính quyền địa phương đến với các tầng lớp nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cần chú trọng nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, truyền thống vẻ vang của Đảng, của Quân đội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ; rà soát, bổ sung kịp thời những phát triển mới về đường lối, quan điểm, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng vào giáo trình giảng dạy ở các cấp học; chú trọng tính hiệu quả của việc tổ chức học tập, tập huấn, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nội dung chương trình giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng theo quy định và giáo dục quốc phòng toàn dân. Kết hợp chặt chẽ các hoạt động giáo dục với thông tin cập nhật tình hình trong nước và quốc tế, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, mưu đồ tham vọng về biển, đảo thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam của các thế lực trong và ngoài khu vực...   
Có nhận thức đúng thì mới hành động đúng và ngược lại, song từ nhận thức đến hành động là cả một quá trình, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan thông tin tuyên truyền phải nghiên cứu, nắm vững nhu cầu thực tiễn, đặc điểm từng lĩnh vực, vùng miền; tâm lý và trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung chương trình tổ chức học tập, quán triệt cũng như xác định nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức về quân sự, quốc phòng… cho phù hợp, hiệu quả, tránh hình thức, giáo điều.   
Chú trọng đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tệ nạn tham nhũng ở nước ta đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng tới sức mạnh của hệ thống chính trị, cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của đất nước trong quan hệ quốc tế, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với chế độ, trực tiếp ảnh hưởng đến “thế trận lòng dân”.
Để góp phần vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách hiệu quả, cần tập trung nghiên cứu đổi mới tổ chức, thể chế hành chính. Xây dựng và làm cho bộ máy nhà nước ở nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh cần gắn chặt với cải cách hành chính, chống tham nhũng, lãng phí bằng các biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt. Cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng cơ chế đấu tranh phòng và chống tham nhũng hiệu quả, đồng bộ trong từng tổ chức, gắn chặt với cơ chế tổ chức, cơ chế hoạt động của Nhà nước, cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; sớm nghiên cứu xây dựng cơ chế giám sát hoạt động giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán, điều tra… trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tổ chức thực hiện đầy đủ từng nội dung của quy chế cán bộ nhà nước công khai các hoạt động của mình tr­ước nhân dân (chứ không chỉ là trư­ớc đại biểu “lựa chọn” trong nhân dân) theo định kỳ, hoặc bất th­ường. 
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đổi mới chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức nhà nước để họ yên tâm thực thi công vụ, không nhận hối lộ, không muốn hối lộ, toàn tâm góp sức vào phát triển kinh tế - xã hội; nếu vi phạm sẽ bị xử lý rất nghiêm và liên quan đến sự mất còn vị trí công việc để họ tự lựa chọn, bất luận họ là ai, giữ cương vị nào. Làm được như vậy, chúng ta mới thu hút được những tài năng thật sự vào làm việc trong khu vực hành chính nhà nước.
Về công tác tổ chức cán bộ, phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của nhiệm vụ then chốt, cấp bách là xây dựng các tổ chức đảng thực sự trong sạch vững mạnh mới có cơ sở để nâng cao chất lượng quản lý, giáo dục, rèn luyện, sàng lọc cán bộ, đảng viên phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Cần có những giải pháp kiên quyết để “thực hiện rõ, thực hiện đúng, thực hiện đến cùng chế độ trách nhiệm cá nhân”, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; kiện toàn các cơ quan, đơn vị chuyên trách và các cơ quan chức năng phòng, chống tham nhũng, lãng phí đủ mạnh (tổ chức bộ máy, cán bộ, nguồn lực). Chú trọng phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; định hướng, tạo dư luận tích cực trong từng tổ chức, dư luận xã hội ủng hộ, bảo vệ, tôn vinh những cá nhân tiêu biểu trong việc phát giác, tố cáo, mạnh dạn đấu tranh phê phán các hành vi tiêu cực như tham nhũng, cơ hội, cục bộ, bè phái… trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Có như vậy mới khắc phục tận gốc nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ, thiết thực củng cố xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh.    
 Tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn dân. Chia rẽ dân với Đảng và Nhà nước là một thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nhằm ly tán “lòng dân”. Để làm việc đó, chúng ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá trên tất cả các lĩnh vực, với hy vọng làm cho nhân dân mất lòng tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, mục tiêu, lý tưởng của CNXH. Do đó, cần tập trung làm tốt việc nghiên cứu tổng kết lý luận và thực tiễn để khẳng định tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối đúng đắn, sáng tạo lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng; lấy đó làm cơ sở để trang bị kiến thức chính trị - tư tưởng, tăng cường “thế trận lòng dân” đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch một cách tích cực, chủ động. Quá trình đấu tranh phải thường xuyên nghiên cứu nắm vững âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; lãnh đạo chỉ đạo tập trung thống nhất, tổ chức chặt chẽ lực lượng, phương tiện đấu tranh; phân rõ cấp độ, phạm vi đấu tranh cho các cấp, các ngành… có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận bảo vệ Đảng và chế độ XHCN.
Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc luôn là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu và xuyên suốt, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, nhằm tạo cơ sở nền tảng sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước - nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đại tá Dương Văn Thực, Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng

Có những người cố tình không muốn hiểu Việt Nam


QĐND - Học giả, Tiến sĩ người Mỹ Thô-mát Gian-đơn (Thomas Jandl), người có nhiều nghiên cứu sâu về tình hình kinh tế, chính trị của Việt Nam trong nhiều năm và đã từng nghiên cứu về những hình thái phát triển của Việt Nam và Ma-lai-xi-a, cho rằng vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam đã bị phóng đại quá mức vì có những người cố tình không muốn hiểu bản chất sự việc.
- Ông đã đến Việt Nam bao nhiêu lần rồi?
- Kể từ lần đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1997 để nghiên cứu và làm luận văn thạc sĩ, đây là lần thứ 12 tôi đến Việt Nam. Tới Việt Nam lần này tôi dẫn theo sinh viên để tìm hiểu về phát triển kinh tế ở Việt Nam. Những lần trước tôi đến một mình để thu thập tư liệu làm nghiên cứu, lấy thông tin cho các bài thuyết trình, đôi khi làm công tác của một phóng viên vì tôi từng là nhà báo. Tôi đã viết nhiều báo cáo về Việt Nam trong suốt thời gian 3 năm tôi học tiến sĩ.
- Với “nền tảng” như vậy, chắc ông nắm khá rõ về tình hình kinh tế-chính trị Việt Nam. Vậy ông nghĩ thế nào về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam nói chung?
- Về nhân quyền nói chung, tôi nghĩ có một số khác biệt giữa Mỹ và Việt Nam trên một số vấn đề. Một trong những vấn đề lớn là một số nhóm người “kỳ lạ” ở Việt Nam rất giỏi trong việc kích động một số người ở Mỹ. Cũng như vậy, vấn đề quyền tự do tôn giáo, cá nhân tôi thấy cũng có sự phóng đại quá mức. Trên thực tế những gì tôi nhìn thấy, tôi nghiên cứu, tôi được biết thì không có vấn đề gì với quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các cá nhân. Có gì đó mà “họ” ám chỉ thì chỉ là có sự khác biệt trong việc đăng ký hoạt động tôn giáo của một số tổ chức mà chúng tôi gọi là xã hội dân sự, còn Việt Nam gọi là các tổ chức xã hội dân sự.
Ví dụ, khi một nhà thờ muốn đăng ký ở Việt Nam thì xét theo điều kiện luật pháp ở Mỹ, chúng tôi coi đó là quyền của nhà thờ. Nhưng cũng như thế ở châu Âu, thì họ lại sẽ xem xét các nhóm tôn giáo để cho đăng ký. Mỹ thì vẫn chỉ trích châu Âu về điều này. Thực tế thì chỉ là do khác biệt về quy định mà thôi. Cứ cố tình hiểu sai đi thì rất khó.
 - Như ông nói thì vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam đã bị phóng đại quá mức?
- Như tôi nói lúc trước, có những nhóm rất giỏi trong việc biến bất kỳ tranh chấp nào đó thành tranh chấp tôn giáo và có những người ở nước ngoài, bao gồm cả ở Mỹ, sẽ ngay lập tức hưởng ứng vấn đề này. Tôi nghĩ, Việt Nam không nên quan tâm đến vấn đề này. Vấn đề tôn giáo là muôn thuở, vì thực tình ở Mỹ hiện nay cũng hình thành hai nhóm, một nhóm luôn chỉ trích Việt Nam với lý do gây sức ép với các nhà thờ. Trong khi đó, nhóm còn lại hoàn toàn hiểu được đó không phải vấn đề tự do tôn giáo, mà là vấn đề một nhóm nào đó đủ điều kiện để được đăng ký hoạt động như một tổ chức tôn giáo hay không.
Hay như vụ việc diễn ra ở Mường Nhé gần đây, như tôi đã nói, các nhóm này đã vận động và tuyên truyền kích động để biến nó thành vấn đề tôn giáo và quyền của dân tộc thiểu số. Nhưng trên thực tế không phải như vậy. 
- Rõ ràng là vẫn còn rất nhiều hiểu lầm đối với vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở ViệtNam. Theo ông, Việt Nam nên làm gì để minh bạch những hiểu lầm này?
- Tôi nghĩ cách tốt nhất là đối thoại, đối thoại giúp hiểu nhau hơn. Ví dụ, bây giờ hầu hết người Mỹ đều hiểu về Việt Nam. Vì sao? Họ đã đến Việt Nam, trực tiếp nhìn thấy, trực tiếp tiếp xúc với người dân, chứ không như ngày xưa, chỉ nghe báo cáo và đọc ở đâu đó.
 - Việt Nam và Mỹ vẫn đối thoại thường niên về nhân quyền để hiểu nhau rõ hơn, nhưng báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ về nhân quyền và tự do tôn giáo vẫn chỉ trích Việt Nam. Ông nghĩ sao?
- Vấn đề là ở chỗ không phải không hiểu nhau mà có một số người cố tình không muốn hiểu. Tôn giáo là vấn đề rất lớn ở Mỹ, lớn hơn nhiều so với ở châu Âu, và được mọi người quan tâm. Do đó, một số nghị sĩ muốn đưa vấn đề này vào chương trình hoạt động của mình, kể cả việc trình các nghị quyết lên Quốc hội, có thể vì một mục đích nào đó, lợi ích nào đó của họ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, không có một nghị quyết nào liên quan đến vấn đề tôn giáo ở Việt Nam được thông qua ở Quốc hội Mỹ. Do đó, có thể thấy vấn đề tự do tôn giáo không còn sức mạnh để chặn bất kỳ tiến bộ thực sự nào trong quan hệ Việt – Mỹ.
- Ông hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về phát triển của Việt Nam. Vậy ông thấy Việt Nam phát triển kinh tế gắn với nhân quyền thế nào?
- Ở một nước còn nghèo và có người rất nghèo thì việc đảm bảo đủ thức ăn, đồ uống rõ ràng là một việc quan trọng liên quan tới quyền của con người. Tôi nghĩ, Việt Nam đã rất thành công và đạt nhiều tiến bộ trong giải quyết vấn đề này như chương trình xóa đói, giảm nghèo và hoàn thành sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Nhìn vào tổng thể, có thể nói Việt Nam đã đảm bảo tốt hơn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho người dân. Mà điều đó cũng được cộng đồng quốc tế công nhận rồi. Việt Nam được thế giới biết đến như một tấm gương về tiến độ thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, đặc biệt là mục tiêu xóa đói, giảm nghèo.
- Đối với sự phát triển của Việt Nam, ông ấn tượng nhất ở điều gì?
- Tự bản thân sự phát triển vượt bậc của Việt Nam trong vòng hơn 20 năm qua đã là ấn tượng. Nhưng đối với tôi, điều đặc biệt và đáng kinh ngạc là Việt Nam tiếp cận với công nghệ thế giới rất nhanh. Ví dụ như internet chẳng hạn. Tốc độ truy cập internet ở Việt Nam đặc biệt nhanh. Năm 1997, khi tôi đến Đại học Cần Thơ, internet ở đây đã rất tốt rồi. Còn nữa, sự phổ cập là rộng rãi. Khoảng 3, 4 năm trước, khi đến Việt Nam thu thập tài liệu viết bài, muốn sử dụng internet, tôi phải tìm một khách sạn. Nhưng giờ đây, tôi có thể ngồi ở bất kỳ quán cà phê nào, dù rẻ tiền cũng có thể truy cập được. Và có nhiều mạng không dây miễn phí ở khắp nơi, tốt hơn nhiều so với ở Mỹ.
Ngọc Hưng – Thu Trang (thực hiện)

Cố tình hiểu sai hay “a dua”?


QĐND - Gần đây, trên một vài trang blog cá nhân xuất hiện những ý kiến lạc lõng về “tự do sáng tạo” và đòi tách văn nghệ ra khỏi hệ thống chính trị (mà cụ thể là đòi thành lập một “hội nhà văn” riêng, độc lập với Hội Nhà văn Việt Nam hiện nay). Họ kêu gọi văn nghệ sĩ sáng tạo “tự do” không phụ thuộc vào một hệ tư tưởng nào và cũng không cần tiền tài trợ của Nhà nước…
Xem xét một cách nghiêm túc đó là thứ tư tưởng “vô chính phủ”, đi ngược lại quyền lợi của số đông văn nghệ sĩ, quyền lợi của nhân dân lao động, ngược lại tinh thần Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phù hợp với bản chất, đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của văn học nghệ thuật.
Họ cố tình hiểu sai nguyên lý tự do sáng tạo của nghệ sĩ hay "a dua" những quan điểm tư sản về vấn đề này?.
Thực ra đây là một vấn đề cũ, đã được bàn luận nhiều và ai cũng thấy rõ là không bao giờ có một thứ văn nghệ phi chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một nguyên lý: “Nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị” (Hồ Chí Minh - Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, 1981, tr349). Văn nghệ cùng với các hình thái ý thức xã hội khác như khoa học, chính trị, đạo đức, triết học, tôn giáo… nằm trong hệ thống kiến trúc thượng tầng. Văn nghệ là một hình thái ý thức đặc thù có những mối quan hệ hữu cơ với các hình thái còn lại, trong đó văn nghệ và chính trị là mối quan hệ đặc biệt. Có người đã từng cho rằng, quan hệ giữa chính trị và văn nghệ là quan hệ độc lập, tách rời… là bởi họ chưa hiểu chính trị là gì. Chính trị là một hình thái ý thức xã hội, đã đành, nó cũng còn là một tổng thể các yếu tố bao gồm các thể chế chính trị, các tổ chức xã hội, như đoàn thể, luật pháp, các đơn vị nhà nước, các lực lượng xã hội, các dân tộc, tộc người… Nhưng quan trọng hơn là mối quan hệ giữa các yếu tố nằm trong hệ thống chính trị. Giữa chúng có mối quan hệ hài hòa thì xã hội có một nền chính trị ổn định và ngược lại. Chính trị đi liền với những vấn đề quan thiết, thậm chí sống còn với từng cá thể trong xã hội, vì chính trị gắn chặt với quyền lợi, bổn phận và nghĩa vụ đối với từng con người. Chính trị bao giờ cũng gắn chặt với kinh tế, là “biểu hiện tập trung của kinh tế” nên chính trị tác động trực tiếp đến đời sống mỗi cá nhân từ việc ăn, ở, đi lại, học hành… Mỗi văn nghệ sĩ cũng chỉ là một cá nhân trong xã hội, một công dân trong một nhà nước mà lại đòi “thoát ly chính trị” là một sự vô lý. Xét về bản chất, ai đó có hô hào rất to là “không làm chính trị, đứng ngoài chính trị, đối lập với chính trị”… thì cũng lại là một cách “làm chính trị”, chưa muốn nói là làm một cách hăng hái nhất, sốt sắng nhất theo quan điểm của họ. Vì đơn giản, “đối lập” cũng lại là một kiểu quan hệ mà thôi.
Lại nói tới một vấn đề “cũ” nữa - một phương diện đặc trưng: Văn nghệ bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm. Tác phẩm văn nghệ luôn là sự kết tinh những ước mơ, khát vọng, hoài bão, suy nghĩ… của con người, trước hết là của tác giả - một con người cụ thể. Mà con người luôn là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, do vậy tác phẩm văn nghệ cũng là một sự kết tinh những quan hệ con người, trong đó có chính trị. Không bao giờ và chưa bao giờ có một thứ văn nghệ đứng ngoài cuộc sống. Một nhà văn dù có trí tưởng tượng siêu việt viết ra những trang văn tả cảnh cuộc sống ở tận trên trời mấy nghìn vạn năm sau, thì người đọc vẫn bắt quả tang nhà văn đó vẫn lấy cái gốc là đời sống hiện tại, ít nhất ở mấy cơ sở sau: Nhà văn ấy tư duy bằng tư duy của thì hiện tại; dùng ngôn ngữ của đời sống hiện tại…
Vấn đề đáng bàn nữa là vấn đề “tự do sáng tạo”. Với tư cách là chủ thể thẩm mỹ, người nghệ sĩ phải có tư chất đặc biệt: Giàu tình cảm, dễ xúc động, nhạy cảm, trí tưởng tượng phong phú… quan trọng hơn là có năng khiếu và cá tính. Nhưng đấy mới chỉ là những điều kiện cần, để trở thành tài năng có ích cho nhân dân mình, Tổ quốc mình, trước hết, đòi hỏi một phẩm chất là tình yêu nước đắm say sâu đậm ở người nghệ sĩ. Một biểu hiện của tình yêu ấy là người nghệ sĩ phải sống hết mình với cuộc sống của nhân dân, dân tộc, thời đại mình. Để có thiên Truyện Kiều bất hủ, cụ Nguyễn Du phải trải qua biết bao “những điều trông thấy” từ những số phận trầm luân như Thúy Kiều. Để có những tác phẩm đồ sộ mà sâu nặng tình người, L.Tôn-xtôi tuy là quý tộc nhưng vẫn thường đi tàu hỏa ở toa hạng bét để đồng cảm với những người nghèo nhất. Nam Cao yêu cầu: Sống đã rồi hãy viết! Tôi hình dung người nghệ sĩ như một cây xanh cắm sâu rễ vào mảnh đất dân tộc, nhân dân, cần cù hút ở đó chất dinh dưỡng nghệ thuật của cuộc đời; tán cây, cành cây, lá cây luôn vươn lên cao để quang hợp ánh sáng mới mẻ của thời đại. Cây to, cường tráng nhờ bộ rễ chắc khỏe và hít thở được nhiều khí trời. Người nghệ sĩ cũng thế, thoát ly cuộc đời, phủ nhận quá khứ, quay lưng với hiện tại, cự tuyệt với nhịp sống đương tuôn chảy, anh ta nhất định khô héo, cằn cỗi rồi bị đào thải.
Có người kêu to “tự do sáng tạo”? Bản chất của sáng tạo là tưởng tượng, dĩ nhiên. Nhưng sự tưởng tượng bao giờ cũng có ngọn nguồn từ thực tại, phù hợp với chân lý đời sống, với quy luật sáng tạo của nghệ thuật, có như vậy mới có thể tạo ra được những hình tượng có sức sống. Vấn đề ở chỗ, cái gì chi phối tưởng tượng? Người có tâm hồn đẹp, lành mạnh thì có sự tưởng tượng tương ứng và ngược lại. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài, đúng quá. Bất kỳ ai, nhất là đối với người nghệ sĩ, trước hết, phải có tình yêu, tâm huyết với đất nước này, cuộc đời này, những con người Việt Nam này. Đấy là cơ sở của sáng tạo.
Lại liên quan đến vấn đề phản biện trong sáng tạo nghệ thuật. Không phải cứ yêu là nói yêu, là miêu tả cho hay hiện thực, mà có khi phải như Lỗ Tấn, phải có tinh thần phê phán, vạch ra cái xấu, cái ác, cái lỗi thời lạc hậu… để con người hiểu, ghê tởm mà tránh xa chúng. Văn nghệ tối kỵ cả “tô hồng” lẫn “bôi đen” hiện thực vì cả hai đều tạo ra nguy cơ làm nghèo, thô thiển nghệ thuật. Tránh căn bệnh này thì chỉ có cách là người nghệ sĩ phải trau dồi sự hiểu biết, hiểu sâu sắc bản chất của hiện thực. Nguyễn Công Hoan là một nhà văn lớn trong thể truyện ngắn, ông miêu tả con người trong xã hội cũ luôn trong tình trạng bị vật hóa, đồ vật hóa là bởi vì nhà văn đã hiểu bản chất của xã hội thực dân nửa phong kiến là thối nát, giả dối, đểu cáng. Không phải là nhà văn ghét bỏ con người, trái lại, vì tha thiết một tình yêu con người nên ông đã miêu tả trạng thái phi nhân tính của con người, qua đó lên tiếng đòi một sự thay đổi trạng thái xã hội, thay thế trạng thái phi nhân tính bằng một xã hội có nhân tính.
Xã hội ta hôm nay có cái xấu, cái ác, cái lỗi thời lạc hậu không? Có. Nhưng đấy không phải là bản chất, không phải là dòng chảy chính. Bằng cái tâm trong sáng của mình, người nghệ sĩ dũng cảm phanh phui những cái xấu, cái ác ấy cũng là một cách làm lành mạnh xã hội. Đành rằng, ranh giới tốt-xấu, hay-dở, lợi-hại trong nghệ thuật là mong manh nhưng số ít người chưa nhận ra thì số đông sẽ nhận ra giá trị đích thực. Mục đích tối thượng của văn nghệ là nhân đạo hóa con người, vì con người.
Đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật, về tự do sáng tạo... rất rõ ràng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng viết: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao; tôn trọng, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo…” ( tr49); “Khuyến khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật để tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, có sức lan tỏa lớn, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc” (tr127). Đảng lãnh đạo bằng chủ trương đường lối còn việc cụ thể là sự triển khai của Nhà nước, các đoàn thể nghề nghiệp, xã hội (trong đó có các văn nghệ sĩ). Một ai đó còn cảm thấy không được tự do tư tưởng, tự do sáng tạo, trước hết, phải xem lại chính mình đã đủ một tình yêu, lòng dũng cảm, vốn sống, chất sống và tài năng hay chưa?
Nguyễn Hải Thanh

HRW đòi điều tra đầy đủ vụ Mường Nhé


NEW YORK, 17-5 (HRW)  –Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) lên tiến kêu gọi chế độ Hà Nội cần thực hiện một cuộc điều tra đầy đủ, khách quan và minh bạch về vụ bất ổn mới đây của hàng ngàn người H’Mông theo đạo Thiên Chúa ở tỉnh Điện Biên, vùng tây bắc Việt Nam, và cách đối phó của nhà cầm quyền trong vụ này. 
HRW ra bản tuyên bố nói các nhà ngoại giao và quan sát quốc tế cần được cho phép tiếp cận khu vực đó một cách không hạn chế và ngay lập tức trước những tin tức về số người chết và bị thương trong vụ việc này.
Vào ngày 30 tháng Tư năm 2011, hàng ngàn người H’Mông tụ họp tại khu vực gần bản Huổi Khon, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
Vào các ngày mùng 4 và mùng 5 tháng Năm, quân đội CSVN điều động binh sĩ và trực thăng đến trấn áp những người tụ tập. Có nhiều tin tức chưa được kiểm chứng cho rằng có hàng chục người H’Mông chết hoặc bị thương. Chính quyền phong tỏa khu vực và không cho phép giới ngoại giao và báo chí nước ngoài tới đó.
“Nhà cầm quyền Việt Nam không thể chỉ chụp một bức màn tối che kín tình hình và coi như mọi chuyện đã trở lại bình thường. Khi những vụ bất ổn cộng đồng như vậy được xử lý nội bộ sau cổng kín tường cao, điều đó sẽ tạo điều kiện chín muồi cho những hành động lạm dụng mà không bị trừng phạt,” ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu.
“Trước tình hình này, mức độ khả tín của chính phủ Việt Nam phụ thuộc vào việc cho phép các nhà báo và quan sát viên độc lập đến khu vực xa xôi đó để tự họ chứng kiến tận mắt.”
Báo chí nhà nước đưa tin rằng vụ bất ổn xảy ra do người H’Mông bị “các phần tử xấu” lừa, hứa hẹn đưa họ đến cái gọi là “vùng đất hứa.”
Vào hai ngày mồng 7 và mồng 8 tháng Năm, Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc đến thăm Mường Nhé và tuyên bố rằng “tình hình tại đây đã yên ổn.” Theo phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga, chính quyền bắt giữ “một số đối tượng có hành vi quá khích.” Bà Nguyễn Phương Nga không cho biết con số cụ thể cũng như căn cước và nơi giam giữ những người bị bắt.
HRW kêu gọi Việt Nam lập tức thực hiện các bước sau:
Tiến hành một cuộc điều tra đầy đủ, khách quan và minh bạch, dưới sự giám sát của một ủy ban trong đó gồm các thành viên đại diện cho cộng đồng sắc tộc H’Mông, về nguyên nhân của vụ bất ổn, những cáo buộc về việc sử dụng vũ lực quá mức cần thiết của chính quyền và mức độ bạo lực của những người biểu tình; và công bố công khai kết quả điều tra;
Cho phép các nhà báo nước ngoài, đại diện ngoại giao tại Hà Nội, các cơ quan Liên Hiệp Quốc và Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế tới Mường Nhé và các khu vực khác ở Điện Biên, cũng như các tỉnh lân cận, để triển khai điều tra độc lập;
Công bố danh sách những người bị bắt giữ liên quan đến vụ bất ổn, cho biết họ đang bị giam giữ ở đâu, cũng như họ bị cáo buộc về những tội gì;
Ngay lập tức cho phép tất cả những người bị bắt và tạm giam được gặp gia đình và tiếp xúc với cố vấn pháp luật;
Bảo đảm rằng không ai trong số những người bị bắt liên quan đến vụ bất ổn bị tra tấn hay lạm dụng tại nơi giam giữ;
Bảo đảm rằng những người biểu tình ôn hòa sẽ không bị trả thù vì đã tham gia cuộc biểu tình.
“Hồ sơ về cách hành xử của chính quyền Việt Nam từ trước đến nay trong việc xử lý những cuộc biểu tình sắc tộc ở các khu vực xa xôi hẻo lánh khác bao gồm bắt bớ tràn lan, lạm dụng trong khi giam giữ, đàn áp tôn giáo, áp đặt tội danh và sử dụng bạo lực quá mức,” ông Robertson nói. “Các nhà tài trợ cho Việt Nam cần yêu cầu chính quyền tiến hành một cuộc điều tra hoàn toàn độc lập và minh bạch để làm rõ tận căn nguyên của những vụ việc này.” (TN)
Source: nguoi-viet

Human Rights Watch công bố báo cáo, kêu gọi Việt Nam trả tự do cho luật gia Cù Huy Hà Vũ


Hôm nay, 26/05/2011, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch, có trụ sở tại Mỹ đã cho công bố một bản báo cáo nhan đề : "Việt Nam: Đảng đối đầu với nhà hoạt động pháp lý Cù Huy Hà Vũ". Bản báo cáo dày hơn 60 trang, điểm lại các hoạt động, bài viết của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và thái độ của chính quyền Việt Nam. Chương 7 của báo cáo tập trung nói về những sai phạm của tư pháp trong vụ xét xử ngày 04/04/2011. Trong bản báo cáo, Human Rights Watch nhận định, việc giam tù tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã làm dấy lên sự ủng hộ chưa từng thấy trong công luận Việt Nam đòi trả tự do cho ông.
Ông Cù Huy Hà Vũ có được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp dân chúng, kể cả trong giới luật sư, quan chức cao cấp, các tổ chức tôn giáo, nông dân… Nhiều websites, blog và mạng xã hội cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với ông Vũ.
Theo ông Phil Robertson, phó giám đốc phụ trách khu vực châu Á của Human Rights Watch, nhận định : chính quyền Việt Nam đã ngạc nhiên về sự ủng hộ đối với ông Vũ xuất hiện nhanh chóng.
Trong phiên xử sơ thẩm hồi tháng tư, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ bị kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia với tội danh tuyên truyền chống lại Nhà nước. Ông Vũ đã làm đơn kháng án. Chuyên gia Robertson cho rằng, chính quyền vẫn chưa công bố ngày xử phúc thẩm, vì có thể lo ngại là sự kiện này lại càng làm tăng thêm sự ủng hộ đối với ông Vũ.
Trong phần cuối bản báo cáo, tổ chức Human Rights Watch tố cáo chính phủ Việt Nam đã vi phạm các nghĩa vụ, chiếu theo luật pháp quốc tế, khi bắt giam, xét xử và phạt tù đối với tiến sĩ Vũ, chỉ vì ông đã phê phán một cách ôn hòa các hoạt động của chính phủ và các lãnh đạo Việt Nam. Human Rights Watch kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện cho tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ.

Quốc hội của Đảng và cũng là của dân


QĐND - Dường như đã trở thành một quy luật, cứ mỗi khi Đảng, Nhà nước ta có những đợt sinh hoạt chính trị, thì ngay lập tức các thế lực thù địch trong và ngoài nước lại tập trung xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta trên các phương tiện truyền thông, nhất là trên mạng internet.
Gần đây nhất, trong dịp cử tri cả nước đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, thì các thế lực thù địch lại tung lên mạng, phát trên đài xuyên tạc thể thức bầu cử, vu cáo vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Quốc hội. Họ đặt câu hỏi đầy ẩn ý: “Quốc hội của Đảng hay của dân?”… và cho rằng, chỉ có dân chủ của các nước phương Tây mới là dân chủ, nhân quyền thực sự (!)
Về mặt khoa học, khái niệm dân chủ, nhân quyền, là khái niệm chung, nó chỉ tồn tại trong các văn kiện của Liên hợp quốc, còn giá trị thực của khái niệm đó luôn luôn gắn liền với “nội luật hóa các công ước quốc tế” của từng nước, nhằm phù hợp, thích ứng với mô hình cụ thể ở mỗi quốc gia, dân tộc. Sự khác biệt của các mô hình dân chủ, nhân quyền giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới là tất yếu, nó bắt nguồn từ các yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hóa. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong văn kiện: “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động” tại Hội nghị nhân quyền quốc tế năm 1993, ở Viên (Áo).
Họp Quốc hội. Ảnh minh họa/internet.

Hiện nay, hơn 190 quốc gia trên thế giới đang tồn tại, với nhiều chế độ chính trị - thể chế quốc gia khác nhau, nhưng không có quốc gia nào tự nhận mình là phi dân chủ, cũng như không ai được phép gán cho những quốc gia đó là độc tài, hay quân phiệt. Ở mỗi quốc gia, việc lựa chọn hệ tư tưởng nào-chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội; thể chế chính trị nào-đa đảng hay một đảng lãnh đạo, cầm quyền; tam quyền phân lập hay phân công phối hợp; mô hình kinh tế nào-chủ nghĩa tự do hay kinh tế thị trường xã hội, đều thuộc thẩm quyền của mỗi quốc gia-dân tộc mà không ai có quyền can thiệp, kể cả Liên hợp quốc.
Về lịch sử, trong khi nhiều nước, ngay từ sau các cuộc Cách mạng dân chủ tư sản, như ở Anh năm 1689; Mỹ năm 1776; Pháp năm 1789… người dân đã ít nhiều được hưởng chế độ dân chủ, các quyền công dân và quyền con người, thì hàng trăm năm sau ở các thuộc địa (trong đó có nước ta) người dân vẫn sống trong chế độ thực dân - phong kiến mà thực chất vẫn là chế độ nô lệ hiện đại, chẳng có “mẫu quốc nào” chia sẻ giá trị dân chủ, nhân quyền với các dân tộc thuộc địa.
Thực chất dân chủ và nhân quyền ở nước ta là do nhân dân ta đổ máu đấu tranh mới giành được từ khi nhân dân ta, được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám, năm 1945.
Sự thật là trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng ngót một thế kỷ qua (từ năm 1930 đến nay), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn hướng đến mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ sở lịch sử, chính trị và pháp lý quang minh chính đại, được nhân dân tôn trọng, tin cậy trao cho. Vai trò đó được Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất ghi nhận trong Hiến pháp - Bộ luật gốc của Quốc gia. Quy định đó cũng hoàn toàn phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc cũng như các công ước quốc tế về quyền con người. Điều 1 “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị”, năm 1966 quy định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc có quyền quyết định thể chế chính trị… của mình”. Điều đó có nghĩa là, các dân tộc có toàn quyền quyết định chế độ xã hội, hệ tư tưởng, hệ thống chính trị, Hiến pháp và pháp luật, trong đó có vai trò của đảng cầm quyền.
Về mối quan hệ giữa Đảng với Quốc hội, đặc trưng thể chế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là ở sự lãnh đạo toàn diện, thông qua đường lối chính sách, thông qua tổ chức Đảng và vai trò của cán bộ, đảng viên. Đặc trưng này không phải là sự áp đặt của Đảng mà được hình thành trong lịch sử, được nhân dân tôn trọng. Sự lãnh đạo của Đảng trong suốt 12 nhiệm kỳ Quốc hội qua chỉ nhằm đạt đến mục tiêu “Quốc hội ta thật sự đại biểu cho lợi ích của nhân dân” như lời Bác Hồ dạy. Và trong thực tế, Quốc hội nước ta ngày càng làm tròn trọng trách là cơ quan quyền lực Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các kỳ họp Quốc hội đã ngày càng được đổi mới theo hướng dân chủ cởi mở, nhất là các phiên chất vấn thành viên Chính phủ. Nhiều chương trình, dự án kinh tế xã hội do Chính phủ đề xuất, sau khi thảo luận đã được Quốc hội thận trọng cân nhắc, điều chỉnh, thậm chí dừng lại để nghiên cứu thêm... Còn trong các kỳ bầu cử, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tỷ lệ đại biểu thuộc dân tộc thiểu số; tỷ lệ đại biểu nữ; tỷ lệ đại biểu là người ngoài Đảng luôn luôn được coi trọng. Ví dụ như nhiệm kỳ khóa XI, đại biểu là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 17,2%; nhiệm kỳ khóa XII, chiếm 17,6%, trong khi tỷ lệ 53 dân tộc thiểu số nước ta chỉ chiếm 13% dân số Việt Nam. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII là: 25,8%, còn ở Thái Lan cũng thời điểm đó: 11,7%, Ma-lai-xi-a: 23,7%, In-đô-nê-xi-a: 11,6%, Xin-ga-po: 24,8%, Lào: 25,2%, Cam-pu-chia: 19,5%...
Những dẫn chứng trên là cơ sở để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và khẳng định rằng, Quốc hội nước ta là Quốc hội của Đảng và đồng thời cũng là Quốc hội của dân. Quốc hội của Đảng, nhưng không phải theo nghĩa sở hữu trong kinh tế, mà đây là trách nhiệm sứ mệnh lịch sử trao cho, là tình cảm của Đảng với nhân dân, với đất nước, với dân tộc. Chính vì thế, muốn Quốc hội thực sự là của dân thì phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, để mãi mãi làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình, để xứng đáng là Đảng cầm quyền, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân thì Đảng ta phải luôn luôn không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng của tổ chức đảng, của từng đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng là đạo đức, là văn minh”; đồng thời tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chống bao biện, “lấn sân” làm thay. Hiện nay ở nơi này, nơi khác, địa phương này, địa phương khác, nhất là ở cấp cơ sở không phải không còn hiện tượng Đảng làm thay chính quyền, thay hội đồng nhân dân, những hiện tượng đó phải kiên quyết được khắc phục.
NGỌC THƯ

Báo chí quốc tế viết về bầu cử ở Việt Nam


(Toquoc)-Nhiều hãng thông tấn và báo chí quốc tế đồng loạt đưa tin về cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng nhân dân ở Việt Nam. Dư luận gọi sự kiện chính trị lần này là sự kiện trọng đại, ngày hội lớn trên cả nước.
Các hãng thông tấn và tờ báo lớn như Tân Hoa xã (Trung Quốc), AP (Mỹ), AFP (Pháp), BBC (Anh), Bloomberg News, Financial Times, Asia News… miêu tả không khí tưng bừng chào đón bầu cử trên các con số ở Việt Nam.
Tân Hoa xã đưa tin, 62 triệu cử tri Việt Nam đã đi bỏ phiếu bầu chọn 500 đại biểu Quốc hội và 301.954 thành viên Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Đây là lần đầu tiên ở ViệtNam, cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được tiến hành cùng một ngày. Khoảng hơn 90.000 điểm bầu cử khắp cả nước mở cửa từ 7h sáng đến 7h tối.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thực hiện quyền công dân ở Hải Phòng. Ảnh: Tân Hoa xã
Hãng thông tấn chính thức của Trung Quốc dẫn con số thống kê từ Bộ Nội vụ Việt Nam rằng, trong số 827 ứng viên đại biểu Quốc hội, ứng viên nữ chiếm 31,44%, ứng viên ngoài Đảng là 14,27%, người dân tộc thiểu số chiếm 16,08%, ứng viên dưới 40 tuổi là 22,13%...
BBC bình luận, Quốc hội Việt Nam đã có tiếng nói nhiều hơn. Hãng này dẫn lời đại diện LHQ sắp từ nhiệm John Hendra đánh giá, Quốc hội Việt Nam đã đóng vài trò nhiều hơn nhằm đảm bảo tính trách nhiệm của chính phủ. "Tôi nghĩ rằng trong hai năm qua chúng ta đã thấy Quốc hội khẳng định được nhiều hơn vai trò của mình", ông Hendra nói.
Mạng tin Asia News viết: “Bầu cử quốc hội Việt Nam và Hội đồng Nhân dân các cấp được tiến hành 5 năm một lần. Quốc hội mới sẽ họp phiên đầu tiên sớm nhất là 60 ngày sau bầu cử, trong khi Hội đồng Nhân dân sẽ họp trong vòng từ 30-45 ngày
Asia News cũng đưa tin, do đặc thù, một số nơi đã tổ chức bầu cử sớm như huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa), huyện Mường Tè (Lai Châu), vùng biển DK1, một số xã miền núi ở Quảng Bình, Quảng Nam, đảo Bạch Long Vỹ (Hải Phòng)...
Hãng AP khi đăng tải tin tức về cuộc bầu cử đã bình luận, trong những năm gần đây, Quốc hội Việt Nam đã khẳng định mình hơn bằng cách kêu gọi chính phủ triệt để ngăn chặn nạn tham nhũng và lãng phí cũng như công khai chỉ trích về một số dự án gây tranh cãi.

Nhiều ngày qua, đường phố Việt Nam tràn ngập pano, áp phích tuyên truyền cho ngày bẩu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ảnh AFP
Tờ báo chuyên về tài chính, kinh tế của Mỹ Bloomberg đưa tin về cuộc bầu cử Việt Nam, đồng thời ca ngợi sự ổn định chính trị của Việt Nam. Trên trang web của Bloomberg có đoạn: “Trong số 827 ứng cử viên Quốc hội thì có 117 người ngoài Đảng, có 15 người tự ứng cử”.
Tờ báo này trích nhận xét của Moody’s cho biết, sự ổn định về mặt chính trị của Việt Nam là kết quả của đất nước ngày càng giàu hơn, triển vọng việc làm tốt hơn và nền kinh tế ngày càng mở hơn. Bloomberg cũng đề cập tới một số thành tựu Việt Nam đạt được trong thời gian qua như: Kinh tế tăng trưởng trung bình 7%, thu nhập bình quân theo đầu người đã tăng gấp bốn lần kể từ giữa những năm 1990. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007.
Trong khi đó, Financial Times mở đầu bài viết của mình bằng việc nói đến một trong những ứng cử viên tự ứng cử là ông Nguyễn Quang Huân, một doanh nhân 47 tuổi người Hà Nội. Ông quyết tâm vì ông nhận thấy mức độ độc lập cao được thể hiện trong Quốc hội Việt Nam trong nhiệm kỳ 4 năm vừa qua.
Tờ Financial Times nhận xét, cuộc bầu cử Quốc hội ở Việt Nam ngày càng có tính chất cạnh tranh cao.
Tờ Straits Times đưa tin, hôm nay, Việt Nam bắt đầu bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử được mô tả là “sự kiện chính trị to lớn”. Hơn 60 triệu người đủ tư cách để bỏ phiếu, bầu chọn 500 đại biểu Quốc hội. Quốc hội Việt Nam được đánh giá là ngày càng trở nên cởi mở và thẳng thắn hơn.
Quốc hội khóa mới sau đó sẽ bầu và phê chuẩn chính phủ mới. Các cử tri đã tiến hành bỏ phiếu ngay sau khi điểm bầu cử mở cửa vào lúc 7h sáng. Truyền hình trước đó đã đưa tin hàng ngày về hoạt động chuẩn bị bầu cử. Đường phố rợp biểu ngữ về bầu cử. Một người dân cho hay: “Ai cũng phấn khởi và vui mừng trong ngày hội bầu cử”.
Dư luận Nga thì chú ý đến khía cạnh cuộc bầu cử lần này diễn ra sau thành công của đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11. Còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng với sự kiện chính trị lớn lần này, Việt Nam sẽ bước vào giai doạn mới, sau giai đoạn cuộc đổi mới kinh tế đã chứng minh rằng Việt Nam đang đi đúng hướng từ nhiều năm qua./.
PV (Tổng hợp)

Đoàn nhà báo quốc tế tìm hiểu vụ việc tại Mường Nhé


Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, một lần nữa bác bỏ những thông tin sai sự thật do một số hãng thông tấn và cơ quan truyền thông nước ngoài liên tiếp đưa ra trong gian qua
Trong 2 ngày (26 và 27/5), phóng viên các hãng thông tấn nước ngoài như: AFP (Pháp), Reuters (Anh), Kyodo News, NHK (Nhật Bản), Tân Hoa Xã (Trung Quốc) và một số cơ quan báo chí trong nước đã lên Điện Biên để tìm hiểu thực trạng vụ việc gây mất trật tự xã hội tại huyện Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) như báo chí đã đưa tin hồi đầu tháng 5/2011
Bà Giàng Thị Hoa, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, một lần nữa bác bỏ những thông tin sai sự thật do một số hãng thông tấn và cơ quan truyền thông nước ngoài liên tiếp đưa ra trong tháng 5/2011 về cái gọi là “bạo động” của người Mông tại huyện Mường Nhé.
Thông tin của một số hãng báo chí nước ngoài nêu: Chính quyền đã dùng vũ lực để giải tán vụ “bạo động” và “nhiều người Mông tham gia đã bị bắt và có người chết” là hoàn toàn bịa đặt, có dụng ý xấu.
Trên thực tế, trong các ngày từ 30/4 đến 6/5, trên một số địa bàn thuộc huyện Mường Nhé, một số phần tử cực đoan đã dùng nhiều thủ đoạn kích động, lừa mị về sự xuất hiện “thế lực siêu nhiên” nhằm lôi kéo, cưỡng bức hàng ngàn đồng bào dân tộc Mông từ nhiều nơi kéo về khu vực bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé để thực hiện âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động tư tưởng chống đối chính quyền, gây mất trật tự xã hội.
Việc chính quyền huyện Mường Nhé huy động các cơ quan, đoàn thể tiến hành các biện pháp là nhằm ngăn cản những kẻ cầm đầu vì đã tiến hành các hoạt động quá khích. Trong quá trình giải tán đám đông tụ tập gây mất trật tự xã hội, chính quyền huyện Mường Nhé hoàn toàn không có sử dụng vũ lực, chỉ tổ chức các đội công tác của các đoàn thể quần chúng, vận động đồng bào không nghe theo kẻ xấu, tự nguyện trở về nơi cư trú, tổ chức chữa trị bệnh tật, chăm sóc y tế cho đồng bào bị ốm đau. Đồng bào các dân tộc ở Mường Nhé đã tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 vào ngày 22/5 với tỉ lệ 99,34%./.
Theo Vietnamplus