Friday, June 9, 2017

Truyền thông Argentina ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh

14:11 ngày 19 tháng 05 năm 2017
Nhân kỷ niệm 127 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2017), các phương tiện truyền thông của Argentina đã đăng nhiều bài viết tóm tắt tiểu sử, ca ngợi tư tưởng và công lao to lớn của Bác Hồ đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Liên Xô (8/1957). Ảnh: Tư liệu.Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Liên Xô (8/1957). Ảnh: Tư liệu.
Bài viết "Hồ Chí Minh: Một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất trong cuộc đấu tranh chống đế quốc" trên tạp chí Tổng hợp Mỹ Latinh đã tóm lược tiểu sử về cuộc đời, nêu bật quá trình hoạt động cách mạng của Người từ lúc ra đi tìm đường cứu nước với tên Nguyễn Ái Quốc.

Bài báo ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng các giá trị đích thực của dân tộc Việt Nam, tượng trưng cho trí tuệ của một đất nước và cũng là tấm gương đạo đức sáng ngời, có lối sống giản dị, tràn đầy yêu thương và niềm tin vào con người.

Trong khi đó, trang báo mạng Argenpress nhận định khác với nhiều người Việt Nam yêu nước trong thời đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường sang phương Tây, làm mọi công việc như đầu bếp, bồi bàn, nhà báo... để mưu sinh và tìm đường đi cho cách mạng Việt Nam.

Bài báo ca ngợi tài trí thông minh của Người khi biết tận dụng thời điểm lịch sử quan trọng trong năm 1945, trong những năm tháng của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2, để kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên kháng chiến giành độc lập tự do cho dân tộc, chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp và mở ra kỷ nguyên mới, độc lập và tự do cho nước Việt Nam.
Truyền thông Argentina ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh ảnh 1Một bài báo viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên trang mạng của Argentina.
Theo bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng xã hội mới tại miền Bắc và tư tưởng cách mạng của Người đã giúp nhân dân Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trang mạng acercandonaciones.com của Argentina cũng đã dành trang lớn đăng hình ảnh Bác Hồ với cờ đỏ sao vàng và bài báo "Hồ Chí Minh - con người của Hòa bình."
Tác giả Jorge Tuero nhắc lại Chủ tịch Hồ Chí Minh mất ngày 2/9/1969 sau khi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Sự ra đi của Người để lại niềm tiếc thương vô bờ của hàng triệu trái tim Việt Nam.
Sau khi trích dẫn lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 17/7/1966 "Không có gì quý hơn độc lập tự do," ông Tuerco khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận vĩ đại, nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc, là anh hùng của dân tộc Việt Nam, chiến sỹ cách mạng kiệt xuất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Đối với các thế hệ người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ luôn là vị cha già dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại luôn có niềm tin sâu sắc đối với nhân dân và luôn được nhân dân Việt Nam, dù già hay trẻ yêu mến, gọi với cái tên thân thương Bác Hồ./.
Bài viết "Hồ Chí Minh: Một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất trong cuộc đấu tranh chống đế quốc" trên tạp chí Tổng hợp Mỹ Latinh đã tóm lược tiểu sử về cuộc đời, nêu bật quá trình hoạt động cách mạng của Người từ lúc ra đi tìm đường cứu nước với tên Nguyễn Ái Quốc. Bài báo ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng các giá trị đích thực của dân tộc Việt Nam, tượng trưng cho trí tuệ của một đất nước và cũng là tấm gương đạo đức sáng ngời, có lối sống giản dị, tràn đầy yêu thương và niềm tin vào con người.
Trong khi đó, trang báo mạng Argenpress nhận định khác với nhiều người Việt Nam yêu nước trong thời đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường sang phương Tây, làm mọi công việc như đầu bếp, bồi bàn, nhà báo... để mưu sinh và tìm đường đi cho cách mạng Việt Nam. Bài báo ca ngợi tài trí thông minh của Người khi biết tận dụng thời điểm lịch sử quan trọng trong năm 1945, trong những năm tháng của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2, để kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên kháng chiến giành độc lập tự do cho dân tộc, chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp và mở ra kỷ nguyên mới, độc lập và tự do cho nước Việt Nam. Theo bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng xã hội mới tại miền Bắc và tư tưởng cách mạng của Người đã giúp nhân dân Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trang mạng acercandonaciones.com của Argentina cũng đã dành trang lớn đăng hình ảnh Bác Hồ với cờ đỏ sao vàng và bài báo "Hồ Chí Minh - con người của Hòa bình". Tác giả Jorge Tuero (Hô-hê Tuê-rô) nhắc lại Chủ tịch Hồ Chí Minh mất ngày 2/9/1969 sau khi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Sự ra đi của Người để lại niềm tiếc thương vô bờ của hàng triệu trái tim Việt Nam.
Sau khi trích dẫn lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 17/7/1966 "Không có gì quý hơn độc lập tự do", ông Tuerco khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận vĩ đại, nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc, là anh hùng của dân tộc Việt Nam, chiến sĩ cách mạng kiệt xuất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với các thế hệ người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ luôn là vị cha già dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại luôn có niềm tin sâu sắc đối với nhân dân và luôn được nhân dân Việt Nam, dù già hay trẻ yêu mến, gọi với cái tên thân thương Bác Hồ.
Theo TTXVN/VietNam+

Thế giới khen ngợi Việt Nam có an ninh trật tự tốt

Thứ Hai, 15/05/2017 16:38

(CAO) Sáng 15-5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì cuộc họp trực tuyến với các địa phương về tình hình an ninh trật tự để bàn về những biện pháp cụ thể trong việc thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn cuộc sống nhân dân.
Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Nguyễn Văn Nên, Thượng tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an, lãnh đạo một số bộ, ban, ngành và các đồng chí Bí thư, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, các cơ quan dân vận, Mặt trận Tổ quốc,…
Phát biểu tại cuộc họp, Thủ tướng cho biết bạn bè thế giới khen ngợi sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam chính là an ninh trật tự tốt. Du khách, nhà đầu tư yên tâm. Đóng góp vào kết quả này có thành tích lớn của các lực lượng chức năng công an, quân đội và các lực lượng khác.
Nhìn nhận công tác đấu tranh trấn áp tội phạm chuyển biến tích cực, Thủ tướng cho rằng, chúng ta đang phải đối mặt nhiều thách thức như: Các thế lực thù địch không ngừng chống phá Đảng, Nhà nước ta. Nổi lên một số loại tội phạm thời gian qua như: tội phạm có tổ chức, sử dụng vũ khí nóng, vật liệu nổ, tội phạm ma túy, xâm hại tình dục trẻ em, nhất là tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Mấy ngày nay xuất hiện tin tặc tấn công máy tính, tống tiền trên thế giới. Bên cạnh đó, là tình trạng chặt phá rừng, khai thác cát sỏi trái phép, bán hàng đa cấp liên quan hàng chục nghìn người gây bức xúc dư luận…
Thủ tướng chỉ rõ nguyên nhân chủ quan là công tác nắm dân, vận động dân, đặc biệt là nắm tình hình còn bị động, lúng túng. Một số trường hợp chưa phối hợp tốt, còn thiếu chuyên nghiệp, thiếu trách nhiệm, chưa thực hiện nghiêm pháp luật, chưa chủ động nghiên cứu các vấn đề xã hội để xử lý một cách khoa học.
“Về nhiệm vụ, giải pháp thì các đồng chí đều nêu là cần nhận thức lại tầm quan trọng của công tác bảo đảm an ninh trật tự trong tình hình mới. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển đất nước. Và tất cả chúng ta phải đề cao trách nhiệm cá nhân của từng đồng chí phụ trách lĩnh vực, các ngành, địa phương để bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, lâu dài” - Thủ tướng cũng nhấn mạnh.
Thủ tướng cũng đề cập đến tinh thần “4 tại chỗ”, giải quyết các vấn đề, vụ việc ngay ở địa phương, ở cấp cơ sở. Đồng thời, chỉ rõ: “An ninh trật tự xấu, kéo dài thì Bí thư, Chủ tịch ở cơ sở đó, địa phương đó, Trưởng công an ở đó phải chịu trách nhiệm theo tinh thần Chỉ thị 48 của Bộ Chính trị. Mình phải nêu trách nhiệm cá nhân chứ trách nhiệm chung chung thì sao được”.
Tại cuộc họp, Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Công an cần tăng cường chỉ đạo xây dựng, củng cố lực lượng, chủ động phối hợp kịp thời chặt chẽ với các bộ, ngành địa phương để giải quyết mọi tình huống xấu có thể xảy ra, đặc biệt là chủ động tham mưu cho cấp ủy chính quyền các cấp. Cần chủ động nắm tình hình kỹ hơn, chủ động phòng ngừa tốt hơn và đưa ra phương án đấu tranh, ngăn chặn mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn để bảo đảm an ninh trật tự.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại cuộc họp
Bộ Quốc phòng chỉ đạo các lực lượng chức năng phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an trong việc xây dựng, triển khai phương án ứng phó các tình huống phức tạp có thể xảy ra. Chủ động bố trí lực lượng phối hợp với các địa phương làm tốt công tác dân vận.
Các bộ, ngành cần rà soát, làm rõ các bất cập, hạn chế về cơ chế chính sách như mặt nào liên quan đến khiếu kiện kéo dài phức tạp thì bộ đó phối hợp với Bộ Tư pháp để đề xuất sửa đổi, nhất là vấn đề giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuyển đổi nghề nghiệp,…
Nhấn mạnh vai trò của công tác tuyên truyền, Thủ tướng yêu cầu Bộ TT&TT chủ trì phối hợp với Bộ Công an và cơ quan liên quan có biện pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, chủ động phát hiện, ngăn chặn, phản bác các luồng thông tin xuyên tạc, sai sự thật, kịp thời cung cấp thông tin chính thống để định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

Liên hợp quốc đánh giá cao thành tựu phòng chống AIDS của Việt Nam

Cập nhật: 21:52 15-05-2017
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tiếp đoàn UNAIDS do Giám đốc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương Steve Kraus. (Ảnh: TTXVN)
Chiều 15/5, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã tiếp ông Steve Kraus, Giám đốc Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) khu vực châu Á-Thái Bình Dương và bà Marie Odile Emondi, Giám đốc Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS tại Việt Nam.
Tại buổi tiếp, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong phòng chống HIV/AIDS và điều trị cho người nhiễm HIV.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên cam kết thực hiện mục tiêu 90-90-90 của Liên hợp quốc với mục tiêu 90% số người nhiễm HIV được biết tình trạng nhiễm HIV của mình; 90% số người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị ARV liên tục; 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng virus ở mức thấp và ổn định.
Hiện Việt Nam đang nỗ lực tự chủ để bảo đảm các kết quả bền vững trong phòng chống AIDS bằng việc ban hành các cơ chế, chính sách thông qua nguồn quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các chương trình mục tiêu và tăng cường thu hút nguồn lực từ cộng đồng. Trong điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, Việt Nam mong muốn Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS tiếp tục có sự hỗ trợ, tài trợ trong lĩnh vực này.
Cảm ơn Phó Thủ tướng dành thời gian tiếp, ông Steve Kraus, Giám đốc Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS khu vực châu Á-Thái Bình Dương đánh giá cao việc Việt Nam là quốc gia đầu tiên của khu vực châu Á-Thái Bình Dương cam kết thực hiện mục tiêu 90-90-90 cũng như những thành tựu của Chính phủ Việt Nam trong phòng chống AIDS. Những nỗ lực này đã giúp làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh AIDS và ca nhiễm HIV.
Đại diện Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS khẳng định sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện các giải pháp khác nhau nhằm duy trì bền vững các kết quả đã đạt được trong dự phòng, chẩn đoán, điều trị những người bị nhiễm HIV/AIDS.
Theo TTXVN

Những thành tựu của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới và những vấn đề đặt ra

Thứ hai 15/05/2017 08:36
AJC xin trân trọng gửi đến bạn đọc tham luận "Những thành tựu của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới và những vấn đề đặt ra" của PGS, TS Trương Ngọc Nam, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền tại Hội thảo khoa học quốc tế “Cải cách của các nước Xã hội Chủ nghĩa và Dân tộc hóa Chủ nghĩa Mác” tại Trung Quốc.
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM SAU 30
NĂM ĐỔI MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
PGS, TS Trương Ngọc Nam
Giám đốc Học viên Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
          Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đánh dấu bằng chặng đường đổi mới 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Thành quả này có được do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quyết định chính là ở việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam cũng chính là điều kiện để Việt Nam nhanh chóng đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
          Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước; đạt được thành tựu to lớn suốt 30 năm tiến hành đổi mới. Điều có ý nghĩa còn thể hiện ở chỗ, trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên xô sụp đổ, song ở Việt Nam chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại, hơn nữa Việt Nam thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt được thành tựu to lớn. Điều đó có nguyên nhân trực tiếp là việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong những hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan duy ý trong việc xác định mô hình và con đường đi lên CNXH.
          Trước hết chúng tôi rút ta bài học khắc phục sai lầm về lý luận trong việc xác định đường lối chiến lược cũng như một số nhiệm vụ cụ thể  xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới (1986).
          Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng trong thời kỳ trước đổi mới mắc phải sai lầm lớn nhất, đó là xác định mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, dựa hoàn toàn trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không thừa nhận sản xuất hàng hóa và qui luật thị trường. Mô hình kinh tế đó đã tỏ ra hoàn toàn không phù hợp với thời kỳ quá độ lên CNXN ở một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Mặc khác, thích ứng với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung làm cho đất nước khó khăn chồng chất, đời sống nhân dân rất thiếu thốn. Trên tinh tình nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, soi sáng thực tiễn trên tinh thần chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, đồng thời quan sát công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc cuối những năm 70 để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đổi mới cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã “chưa thấy hết được những khó khăn phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ phân tán và lạc hậu, cũng như chưa thấy hết hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài; đã chủ quan nóng vội đưa ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất; trong khi đó lại bảo thủ trì trệ trong việc tìm biện pháp phát huy những thuận lợi và khả năng về lao động, tài nguyên, ngành nghề và cơ sở vật chất kỹ thuật đã có”1.
          Với tư tưởng giáo điều, chủ quan duy ý chí muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thực hiện xây dựng nền kinh tế với hai thành phần kinh tế cơ bản (thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) nên nhiều nguồn lực phát triển lại bị triệt tiêu, không có cơ hội được cùng tham gia một cách bình đẳng vào hoạt động của nền sản xuất xã hội, sức sản xuất xã hội được không được giải phóng, sức ỳ của nền sản xuất càng gia tăng, xã hội càng roi vào tình trạng trì trệ kéo dài và dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
          Sau Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn nhận tỉnh táo sự sụp đỏ của một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, kịp thời đưa ra được những nhận định hết sức đúng đắn “Chủ nghĩa xã hội đang đững trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang phải trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến bước tới chủ nghĩa xã hội, vì điều đó là quy luật của tiến hóa lịch sử”2. Trước những khó khăn thử thách, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn “kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; “quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam  khẳng định “ Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhân thức đúng đắn hơn, được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển  chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí  Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”4.
          Kể từ khi tiến hành đổi mới đến nay, trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động sâu sắc, nhờ kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nên Việt Nam tiếp tục giành nhiều thắng lợi mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định “ Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí  Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí  Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn ,bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đăn những vấn đề do cuộc sống đặt ra”; phải ra sức “Năng cao trình độ trí tuệ chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới” 5;
          Đánh giá tổng thể về những thành tựu của 30 năm tiến hành đổi mới, Đại hội XII chỉ rõ: “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhâp quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và  ngày càng mở rộng”. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thông chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên…; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao” (6) . Những thành tự đó ngày càng khẳng định sự đúng đắn trong đường lối xây dựng CNXH, đồng thời cũng khẳng định sự nhận thức và vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng  Việt Nam.
          Những thành tựu 30 năm đổi mới kinh tế và một số vấn đề đặt ra.
          Từ Đại hội lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thẳng thắn tự phê bình về việc đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách sai lầm trong cải tạo xã hội chủ trương, trong xác lập chế độ sở hữu, chế độ phân phối và cơ chế quản lý. Xuất phát từ nhận thức và vận dụng giáo điều, máy móc về quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, rằng quan hệ sản xuất mới được xác lập sẽ mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình nhận thức lại, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng : “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” (7) . Đây là một luận điểm thể hiện tầm tư duy đổi mới sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để từ đó đưa ra quan điểm mới về nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa phù hợp hơn trong hoàn cảnh mới. Kể từ Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Sau 30 năm đổi mới, bổ sung, phát triển về lý luận về mô hình, con đường đi lên CNXH, Đại hội XII đã khẳng định mô hình kinh tế tổng quát trong thới kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là  “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu  “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" (8).
          Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn đổi mới nền kinh tế thi trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay:
          Với những thành tựu vô cùng to lớn về kinh tế trong quá trình đổi mới 30 năm qua đã khẳng định đường lối đúng đăn của mô hình kinh tế tổng quát mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định. Đó cũng chính là thành tựu của sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiêm, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng còn nhiều hạn chế.
          Một là, chưa hình thành được khung lý luận đầy đủ và hệ thống về kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, nhât là về một số nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường. Nhận thức chưa rõ về bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về vị trí, vai trò và mối quá hệ giữa các chủ thể của kinh tế thị trường.
          Hai là, chưa hình thành được khung khổ đầy đủ về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  nên chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế.
          Ba là, thể chế kinh tế thị trường nói chung còn thiếu đồng bộ, nhất quán, điều này gây ra sự cản trở méo mó trong vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhận thức chưa đầy đủ và thiếu thống nhất về chế độ sở hữu, về phân định vai trò các thành phần kinh tế. Chưa có tư duy đột phá về chiến lược phát triển công nghiệp, nông nghiệp.
          Bốn là, chưa làm sáng tỏ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường do chưa phân định rõ chức năng Nhà nước – thị trường. Nhà nước vẫn bao biện nhiều chức năng mà thi trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân bổ vốn; quản lý doanh nghiệp trong khi chưa chú ý đúng mới đến những chức năng mà Nhà nước phải hoàn thành , xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước “khung khổ hành chính – pháp lý” cung cấp hàng hóa và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển…). Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập.
          Năm là, chưa có những giải pháp hữu hiệu củng cố và phát triển kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước chưa thực hiện được đầy đủ vai trò chủ đạo, định hướng của nó trong nền kinh tế thị trường.
          Những thành tựu 30 năm đổi mới chính trị và những vấn đề đặt ra
          Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đơn thuần tập trung đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, hay ngược lại chỉ cải tổ chính trị như Liên Xô và các nước Đông Âu. Tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh việc phải “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là bài học vô cùng quý giá đã được chứng minh trong suốt 30 năm đổi mới vừa qua.
          Trong lĩnh vực chính trị, kể từ khi tiến hành đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn một bước bản chất vai trò, cấu trúc, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị. Sự hình thành và phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về hệ thống chính trị bắt nguồn từ thực tiễn đổi mới của Việt Nam, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh văn hóa nhân loại. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra những quan điểm mới, đúng đắn và phù hợp hơn về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị.
          Về sự phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong lĩnh vực chính trị thể hiện trước hết trong quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị. Phù hợp với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, kể từ Đại hội III của Đảng (tháng 9 - 1960) cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ thống chính trị ở Việt Nam được tổ chức hoạt động ở các yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản và do vậy, tên gọi chính thức của hệ thống này được xác định là “hệ thống chính trị vô sản”. Tuy nhiên bước vào đổi mới, từ Đại hội VI đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra những quan điểm mới, đúng đắn, phù hợp hơn về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị. Theo đó, đến Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3 - 1989) thuật ngữ “Hệ thống chính trị” lần đầu tiên được sử dụng. Từ đó đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước tiến lớn trong nhận thức về hệ thống chính trị, thể hiện ở 1 số luận điểm sau.
          Trước hết, mục tiêu xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị là thực hiên tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa được nhấn mạnh, và đưa đến thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
          Tổng kết việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải khai thác những giá trị lý luận Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trong khi đó lại không tiền tệ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó. Với yêu cầu đó sau 8 năm tiến hành đổi mới Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1994) lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” với khẳng định : “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”.
Có thể thấy với khẳng định việc “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện” nhà nước pháp quyền Việt Nam , đã chứng tỏ quan điểm để cao vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước đã sớm được nêu ra ở các khía cạnh khác nhau từ trước đó. Tiếp đến Đại hội IX đánh dấu bước phát triển rõ rệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quan điểm này của Đại hội IX đã được thể hiện trong khi sửa đổi một số điều Hiến pháp 1992 (2001) và tiếp tục được khẳng định ở Đại đội X với chủ trương: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo nguyên tắc cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ”. Cương lĩnh (bổ sung phát triên 2011) đã phát triển thêm một bước lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là : “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm  soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển 2011) Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung vấn đề kiếm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Rõ ràng lý luân về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển cụ thể hơn phát triển cho phù hợp thực tiễn đất nước. Chính từ thực tiễn 30 năm đổi mới chính trị, một lần nữa được Đại đội XII nhấn mạnh : “ Xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa  phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn hiệu lực hiệu quả gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành, năng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước”
          Trong đổi mới chính trị của quá trình đổi mới 30 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh về quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhà nước làquan hệ đặc biệt giữa chủ thể chủ chốt trong hệ thống chính trị được nhân dân ủy quyền bằng những con đường và phương pháp khác nhau, nhưng đều cùng mục đích là bảo đảm “quyền lực thuộc về nhân dân” để thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng là chủ thể được nhân dân thừa nhận vai trò lãnh đão Nhà nước và cả xã hội (thông qua Hiến pháp – Điều 4); còn Nhà nước là công cụ của nhân dân, được nhân dân ủy quyền bằng con đường bầu cử và Hiến pháp để thực hiện quyền lực của mình.
          Một số vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn đối với đổi mới chính trị
          Một là, Nhận thức về hệ thống chính trị về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, cấu trúc, tổ chức, cơ chế vận hành hệ thống chính trị, phương thức, cơ chế hoạt động của các thành viên có mặt chưa thật rõ, chưa thống nhất, nhất là trước yêu cầu và trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyên, phát triển thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chưa nghiên cứu sâu và làm rõ một cách có hệ thống về đổi mới phương thức lãnh đạo – cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và đối với các thành viên khác của hệ thống chính trị trong mọi cấp độ tổ chức của hệ thống chính trị. Giữa chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước vẫn có sự chồng chéo ở các cấp, trong nhiều lĩnh vực, dẫn đến định hướng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên còn có những lúng tùng.
          Hai là, Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền còn những bất cấp, chưa đáp ứng được đầy đủ các nguyên tắc cơ bản: Thượng tôn pháp luật; hoạt động thực sự dân chủ; chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…, đã hạn chế việc thực hiện đầy đủ các quyền và điều kiện làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc “Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ” chưa được thể chế hóa cụ thể và rành mạch thành cơ chế đồng bộ để nhân dân thực sự là chủ và làm chủ các quá trình phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, làm chủ theo tinh thần “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Còn diễn ra tình trạng lạm quyền, tham quyền, tha hóa quyền lực gây bức xúc trong xã hội. Giữa nhận thức lý luận với các chế định luật pháp, cơ chế chính sách và với việc thực thi trong cuộc sống về các giá trị dân chủ vẫn còn những khoảng cách. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho xã hội và công dân. Tình trạng quan liêu, tiêu cực của một bộ máy hành chính làm cho việc dân chủ hóa quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa nhanh, nhạy, hiệu quả không cao.
          Ba là, Trong đổi mới chính trị mục tiêu trước hết là thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giữa vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Song quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu và nhân thức sâu sắc, đầy đủ; có lúc, có noi còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ, coi nhẹ vai trò làm chủ của nhân dân; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp còn những biểu hiện thiếu thực chất, chưa phát huy tốt vai trò. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, một số lĩnh vực còn bị vi phạm, việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức.
          Bốn là, Về bộ ba trong quan hệ giữa hệ thống chính trị với kinh tế và với các tổ chức chính trị xã hội. Thứ nhất, trong mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với kinh tế thể hiện giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế chưa thật đồng bộ, phù hợp. Thể hiện ở chỗ, một mặt, chưa nắm bắt đầy đủ quy luật của thị trường cũng như yêu cầu và tác động của kinh tế thị trường đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị; mặt khác, chưa thấy hết vai trò thúc đẩy của hệ thống chính trị trong xây dựng và phát triển thể chế kinh tế mới. Thứ hai, về quan hệ giữa hệ thống chính trị với các tổ chức chính trị - xã hội hiện cho thấy, nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị còn những điểm chưa được làm rõ. Trong thực tế, các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động với hai chức năng chủ yếu. Một là, tham gia cùng với Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến “quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, quyền dân chủ của nhân dân”. Hai là, các tổ chức này hoạt động với những nội dung mang tính chất kinh tế - xã hội theo cơ chế tự chủ và tự quản theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, theo điều lệ của từng tổ chức. Việc chưa nhận thức và phân định rõ hai chức năng này đã dẫn đến việc xác định cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động và mối quan hệ với hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở còn nhiều điểm chưa phù hợp, cồng kềnh, bị hành chính hóa.
          Kết luận
          Từ những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của quá trình 30 năm đổi mới, một lần nữa có thể khẳng định, đây là những thành tựu có được từ sự kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mà cốt lõi từ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị làm cơ sở đưa đến thành tựu đổi mới toàn diện đất nước. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới đó cũng chính là cơ sở nền tảng để Việt Nam thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong giai đoạn tiếp theo.   
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.13 – 15.
2Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 8.
3Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.70.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.131.
Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TƯ Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65-66.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.57.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TƯ Đảng, Hà Nội, 2016, tr.102.)

      
Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Thành tựu đối ngoại đa phương: Khẳng định vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế

Thứ hai - 08/05/2017 07:54


Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc phát biểu tại Hội nghị Cấp cao khóa 31 Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc, tháng 3-2016 - Ảnh: baoquocte.vn





Trải qua 30 năm đổi mới, đối ngoại đa phương trở thành một bộ phận quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Các hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam được mở rộng và đi vào chiều sâu ở tất cả các kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại quốc hội và đối ngoại nhân dân; tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hỗ trợ phát triển và tạo vị thế mới của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương; giúp Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động, tích cực, sâu rộng và khẳng định là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Sự tham gia của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các diễn đàn đa phương chính đảng


Trải qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là những năm vừa qua, công tác đối ngoại đảng của Việt Nam, trong đó có đối ngoại đảng tại các diễn đàn đa phương, đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Bên cạnh việc tăng cường và mở rộng quan hệ song phương với các chính đảng trên thế giới(1), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và chủ trương chủ động, tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương chính đảng, tham gia thảo luận việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước ta, làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về Việt Nam.

Là cơ chế đa phương do Đảng Lao động Bỉ (PTB) khởi xướng tổ chức thường niên từ năm 1992, Hội thảo quốc tế các đảng cộng sản (ICS) với sự tham gia của nhiều đảng cộng sản trên thế giới tập trung thảo luận về tư tưởng, đường lối đấu tranh và khả năng phối hợp hành động của các đảng cộng sản, công nhân và phong trào cánh tả trên thế giới. Năm 2008, Đảng ta lần đầu tiên cử đoàn đại biểu tham dự ICS lần thứ 17. Tại mỗi kỳ tham dự, các thông tin từ Đoàn Việt Nam, nhất là các tham luận, ý kiến đóng góp xây dựng cho phong trào, cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và về Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được Hội thảo đặc biệt quan tâm. Năm 2010, tại ICS lần thứ 19, Đảng Lao động Bỉ đã mời Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức tham gia Ban Cố vấn của ICS. Đây là sự ghi nhận, đánh giá cao của ICS đối với tinh thần quốc tế và sự tham gia rất trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Diễn đàn Xao Pao-lô (SPF) được Đảng Lao động Bra-xin thành lập tại thành phố Xao Pao-lô (Bra-xin) từ năm 1990. Đây là diễn đàn của các đảng, lực lượng cánh tả và tiến bộ khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê được tổ chức thường niên theo cơ chế luân phiên. Mục đích của SPF là nhằm đoàn kết lực lượng của các đảng và các phong trào cánh tả, thảo luận, phân tích tình hình quốc tế và khu vực, tìm ra các biện pháp, hình thức đấu tranh phù hợp, đồng thời tăng cường khối đoàn kết trong khu vực và trên thế giới. Đảng ta cử đoàn đại biểu tham dự SPF lần đầu tiên vào năm 1992. Sự tham gia SPF của Việt Nam được coi là nguồn cổ vũ, khích lệ đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ La-tinh, góp phần vào thành công chung của các cuộc gặp cũng như vào thắng lợi của các đảng cánh tả, tiến bộ khu vực trong những năm qua.

Nhằm mục tiêu tăng cường sự hiểu biết, tin cậy giữa các chính đảng ở châu Á; tạo nhận thức chính trị chung giữa các đảng về những vấn đề khu vực thông qua vai trò đặc biệt của các chính đảng(2) trên chính trường các nước; tạo môi trường hòa bình và thịnh vượng chung trong khu vực, Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á (ICAPP) được hình thành vào tháng 9-2000. ICAPP có 2 diễn đàn chính thức là: Hội nghị toàn thể (với sự tham gia của tất cả các thành viên) và Cuộc họp Ủy ban Thường trực (với sự tham gia của đại diện các chính đảng thành viên của Ủy ban Thường trực). Đến hết năm 2016, ICAPP đã tổ chức 9 hội nghị toàn thể và 27 cuộc họp Ủy ban Thường trực.

Đảng ta tham gia ICAPP ngay từ khi Hội nghị này được thành lập và tham dự tất cả các hội nghị toàn thể, có nhiều sáng kiến, cũng như đóng góp thiết thực vào việc thực hiện những mục tiêu, dự án ưu tiên của ICAPP. Với uy tín, vị thế và sự tham gia ngày càng tích cực trên trường quốc tế và trong khuôn khổ của ICAPP, Việt Nam được bầu làm Ủy viên Ban Thường trực ICAPP (tháng 9-2004) và liên tục được bầu lại trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Tháng 4-2013, Đảng ta lần đầu tiên đăng cai tổ chức thành công Cuộc họp lần thứ 19 của Ủy ban Thường trực ICAPP - một hoạt động chính thức trong khuôn khổ ICAPP. Điều đó thể hiện sự tham gia tích cực, đóng góp hiệu quả và trách nhiệm của Đảng ta đối với công việc chung của hội nghị quốc tế dành cho các đảng chính trị trong khu vực.

Được hình thành từ năm 1998, Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (IMCWP) cho đến nay đã thu hút được sự tham gia của hơn 120 đảng cộng sản và công nhân từ 85 nước trên thế giới, trở thành diễn đàn quan trọng để các đảng cộng sản và công nhân trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và tăng cường hợp tác, phối hợp hành động vì sự nghiệp đấu tranh chung. Tháng 10-2016, Đảng ta đăng cai tổ chức IMCWP lần thứ 18, thể hiện sự đóng góp tích cực trong hoạt động của phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới. IMCWP 18 đề ra mục tiêu đổi mới các cơ chế phối hợp và hành động chung giữa các đảng và đã đạt được đồng thuận cao để thông qua văn kiện chung, góp phần quan trọng vào sự đoàn kết, thống nhất của các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới trong tình hình hiện nay. IMCWP-18 cũng là dịp để các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới tìm hiểu về công cuộc đổi mới ở Việt Nam, tăng cường quan hệ giữa Đảng ta với các đảng cộng sản và công nhân các nước, góp phần tăng cường đoàn kết, thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới.

Có thể thấy, việc Đảng ta chủ động thông tin, tăng cường tiếp xúc, đối thoại tại các diễn đàn đa phương chính đảng nêu trên, cũng như tại các hội thảo quốc tế do các đảng cộng sản, công nhân và cánh tả tổ chức, đã làm cho các chính đảng trên thế giới hiểu đúng và sâu sắc hơn về tình hình và công cuộc đổi mới của nước ta; hiểu rõ và kịp thời hơn về quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên những vấn đề được dư luận quốc tế quan tâm theo dõi, nhất là về đường lối đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội, những vấn đề liên quan đến biên giới, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền...; hiểu rõ hơn về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị Việt Nam, cũng như về con đường mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn - con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đem lại hạnh phúc và no ấm cho mọi người dân.

Ngoại giao nhà nước tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực

Hoạt động đối ngoại đa phương trên kênh ngoại giao nhà nước đã thu được những thành tựu nổi bật và có sự chuyển biến về chất. Việt Nam đã có những đóng góp tích cực, hiệu quả và đảm nhiệm thành công nhiều vai trò chủ chốt tại các diễn đàn đa phương trên mọi cấp độ và lĩnh vực.

Tại Liên hợp quốc - tổ chức đa phương toàn cầu lớn nhất, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, đánh dấu sự trưởng thành của ngoại giao đa phương, mở đầu bằng sự kiện Việt Nam được quốc tế tín nhiệm bầu với số phiếu rất cao và đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2008 - 2009. Tiếp đó, Việt Nam liên tục được các nước tín nhiệm bầu làm thành viên những cơ quan quan trọng, như Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014 - 2016), Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC, nhiệm kỳ 2016 - 2018), Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA, nhiệm kỳ 2013 - 2015), Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IAEA (năm 2013 - 2014); Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO, nhiệm kỳ 2015 - 2019).

Trong suốt gần 40 năm là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc trên cả ba trụ cột hòa bình - an ninh, phát triển và quyền con người, Việt Nam luôn kiên định bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, đề cao tinh thần thượng tôn luật pháp quốc tế, phấn đấu cho một thế giới hòa bình, trong đó các nước bình đẳng với nhau về mọi mặt. Việt Nam cũng được coi là hình mẫu thực hiện thành công các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), áp dụng thành công Mô hình thống nhất hành động giữa Liên hợp quốc và Việt Nam, có nhiều sáng kiến, nhiều nỗ lực về đóng góp vào các hoạt động của Liên hợp quốc với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Quan hệ giữa Liên hợp quốc và Việt Nam cũng ngày càng được thắt chặt, thể hiện rất rõ qua hai chuyến thăm Việt Nam trong hai nhiệm kỳ của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Mun, các chuyến thăm và làm việc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các lãnh đạo cấp cao của nước ta tại Liên hợp quốc,...

Ở phạm vi khu vực, sau hơn 20 năm gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã khẳng định được vai trò hạt nhân tích cực và quan trọng của tổ chức này. Trong năm 2010 - năm đảm nhiệm vị trí Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đề xuất trọng tâm hợp tác trong ASEAN là “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: từ Tầm nhìn đến Hành động”, nhằm tạo chuyển biến trong liên kết khu vực, cùng hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng vào năm 2015. Việt Nam luôn tích cực cùng ASEAN xây dựng, thúc đẩy và phát huy các công cụ và cơ chế hợp tác chính trị - an ninh ở khu vực, góp phần xây dựng lòng tin, thúc đẩy đối thoại, hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác vì phát triển, như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)... Ngoài ra, Việt Nam cũng đẩy mạnh và tham gia ngày càng thực chất, hiệu quả tại các tổ chức, diễn đàn hợp tác liên khu vực và khu vực, như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác Đông Á - Mỹ La-tinh (FEALAC), Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công,...

Trong lĩnh vực kinh tế, việc trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO, năm 2007) là dấu mốc khẳng định sự thành công của công cuộc đổi mới và phát triển, hội nhập ở mức độ toàn cầu của kinh tế Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán, kết thúc đàm phán nhiều hiệp định tự do thương mại, như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB),... Việt Nam đã và đang là nước ASEAN đi đầu trong việc hoàn tất các hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng với các trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu thế giới. Dự báo đến năm 2020, với các FTA được triển khai và hoàn tất, Việt Nam sẽ trở thành tâm điểm của các FTA ở khu vực với mạng lưới gồm 58 đối tác, trong đó có toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam cũng có những bước phát triển mới, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Trong diễn đàn văn hóa đa phương rộng lớn, như UNESCO, ngoại giao văn hóa của Việt Nam đã phát huy vai trò tích cực, đạt những thành tựu đáng ghi nhận, nổi bật là việc trở thành thành viên Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2015 - 2019 với số phiếu cao nhất từ trước đến nay. Hình ảnh đất nước cũng được đẩy mạnh quảng bá thông qua việc đã có 24 di sản của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Sự tham gia của Quốc hội Việt Nam tại các diễn đàn ngoại giao liên nghị viện

Với phương châm tích cực và chủ động trong các hoạt động đối ngoại, Quốc hội Việt Nam đã tham gia nhiều diễn đàn nghị viện đa phương khu vực và quốc tế quan trọng.

Là thành viên của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) trong suốt hơn 35 năm qua, Quốc hội Việt Nam luôn tham gia tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng vào các hoạt động của diễn đàn đàm phán chính trị đa phương và trung tâm đối thoại ngoại giao nghị viện toàn cầu này. Sự kiện Quốc hội Việt Nam đăng cai tổ chức thành công kỳ họp lần thứ 132 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU-132) tại Hà Nội (tháng 3-2015) vào dịp kỷ niệm 36 năm Quốc hội Việt Nam gia nhập IPU (1979 - 2015) và kỷ niệm 126 năm ngày thành lập IPU (1889 - 2015) là một sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử - ngoại giao hết sức to lớn, thể hiện tinh thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng của Quốc hội Việt Nam, một thành viên có trách nhiệm trong tổ chức liên nghị viện toàn cầu.

Quốc hội Việt Nam tham gia Hội đồng Liên minh nghị viện ASEAN (AIPA) ngay từ khi là thành viên của ASEAN(3) và có những đóng góp chủ động và tích cực trong các cuộc họp Đại hội đồng AIPA. Những nội dung đóng góp của đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam trong các kỳ họp AIPA đã thể hiện chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững lập trường, nguyên tắc của Việt Nam, đồng thời linh hoạt, hài hòa với lợi ích chung của khu vực, nhờ đó đã đạt được sự ủng hộ cao của các nước. Đoàn Việt Nam đã thành công trong việc đưa các nội dung, quan điểm của ta về vấn đề thúc đẩy hợp tác khu vực, phát huy đầy đủ các công cụ hiện có của ASEAN... vào các nghị quyết của AIPA. Là diễn đàn nghị viện quan trọng của khu vực, Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF) hỗ trợ trực tiếp cho APEC và thu hút được sự tham gia của các nước lớn trong khu vực, như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Nga. Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam luôn tích cực tham gia mọi hoạt động tại APPF, nhất là trong quá trình soạn thảo và thông qua các văn kiện. Phát biểu, tham luận của Đoàn Việt Nam được chuẩn bị kỹ về nội dung và toàn diện về nhiều chủ đề mang tính thời sự của khu vực và thế giới liên quan đến tình hình an ninh - chính trị, kinh tế thương mại và hợp tác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nêu rõ quan điểm và kiến nghị của Việt Nam về các nội dung nghị sự, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các nước tham dự và sự đánh giá cao của bạn bè quốc tế.

Bên cạnh các diễn đàn quốc tế đa phương kể trên, Quốc hội Việt Nam còn tham dự nhiều sự kiện nghị viện khu vực và quốc tế khác, như Đại hội đồng Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF), Diễn đàn Đối tác nghị viện Á - Âu (ASEP), Đại hội đồng Diễn đàn Nghị sĩ về giáo dục và phát triển (FASPPED),... và nhiều hội nghị liên nghị viện khác.

Đối ngoại nhân dân tại các diễn đàn nhân dân đa phương
 

Trong điều kiện mới hiện nay, đối ngoại nhân dân tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng, phục vụ đắc lực quá trình đổi mới.

Trong hoạt động chính trị đối ngoại, các đoàn thể và tổ chức nhân dân của ta đã xuất hiện ngày càng nhiều trên các diễn đàn quốc tế và khu vực, trong các hoạt động đối ngoại nhân dân đa phương, như Hội nghị Phụ nữ thế giới, Diễn đàn Xã hội thế giới, Diễn đàn Nhân dân Á - Âu, Diễn đàn Đoàn kết châu Á - Thái Bình Dương với Mỹ La-tinh... Các đoàn thể và tổ chức nhân dân đăng cai thành công nhiều hoạt động quốc tế và khu vực ở Việt Nam trong những năm qua, như Hội nghị Tiểu ban Hòa bình và giải trừ quân bị của Tổ chức Phật giáo châu Á vì hòa bình, Hội nghị khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Hội đồng Hoà bình thế giới;...

Tại các diễn đàn nhân dân đa phương, các đoàn thể và tổ chức nhân dân Việt Nam cũng tham gia rất tích cực vào nhiều hoạt động bảo vệ chủ quyền đất nước và chế độ chính trị, chống các thế lực thù địch ở bên ngoài nhân danh “dân chủ”, “nhân quyền”, lợi dụng các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” hòng xuyên tạc, phá hoại công cuộc xây dựng và phát triển của Việt Nam. Các đại biểu của các đoàn thể và tổ chức nhân dân mềm dẻo, linh hoạt tiếp xúc hành lang để vừa giải thích, vận động, vừa kiên quyết đấu tranh có lý, có tình trên những diễn đàn, như Hội nghị Nhân quyền khu vực và thế giới; Hội nghị Phụ nữ thế giới; các diễn đàn phi chính phủ Mỹ - Đông Dương; Diễn đàn Nhân dân ASEM; Diễn đàn Xã hội thế giới...

Hoạt động và sự tham gia của các đoàn thể và tổ chức nhân dân Việt Nam tại các diễn đàn đã góp phần giới thiệu chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, truyền thống lịch sử và những thành tựu toàn diện của đất nước Việt Nam đến với thế giới; xây dựng và tăng cường tình hữu nghị của nhân dân các nước với nhân dân ta, vận động các nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ rộng rãi của bạn bè quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Có thể thấy, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế; có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Những thành tựu trên tất cả các kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại quốc hội và đối ngoại nhân dân, hoạt động đối ngoại đa phương góp phần vô cùng quan trọng vào việc khẳng định vị thế mới của nước ta trên trường quốc tế; tranh thủ nguồn lực quốc tế, tăng cường tiềm lực đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; chuyển tới bạn bè năm châu về hình ảnh một dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đổi mới, năng động, tích cực phấn đấu vì hòa bình, tiến bộ xã hội và những giá trị chung của nhân loại./.

------------------------------------------

(1) Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ ở các mức độ khác nhau với 228 chính đảng tại 112 nước trên khắp các châu lục, trong đó có 59 đảng cầm quyền và 38 đảng tham chính

(2) Thành viên của ICAPP là các đảng lớn hoặc cầm quyền của các nước

(3) Liên nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO) được thành lập năm 1977, từ năm 2006 chính thức đổi tên là Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPA)

Đỗ Thùy Dương
ThS, Ban Đối ngoại Trung ương

Nguồn tin: www.tapchicongsan.org.vn