Thursday, December 7, 2017

Đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS vào năm 2030

Chủ Nhật, 26/11/2017 - 21:34

Mặc dù tình trạng lây nhiễm HIV vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, nhưng trong vòng hơn 20 năm qua, Việt Nam đã có những thành tựu ngoạn mục trong công cuộc phòng, chống HIV, cứu được hàng trăm ngàn sinh mạng thoát khỏi tử vong do liên quan đến AIDS.

Theo số liệu của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, hiện trên Thế giới có 36,7 triệu người nhiễm HIV còn sống và khoảng 35 triệu người đã tử vong từ đầu vụ dịch.
Tại Việt Nam, nam giới nhiễm HIV chiếm 70%, nữ giới chiếm 30%, tập trung ở độ tuổi từ 30 - 40 tuổi. Nguy cơ lây chính là từ các nhóm nghiện chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nhóm quan hệ tình dục đồng tính nam (MSM).
Phát biểu tại lễ mít tinh, diễu hành hưởng ứng Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và Ngày Thế giới phòng, chống AIDS năm 2017, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng: “Ở Việt Nam, căn bệnh này được phát hiện muộn hơn so với Thế giới 10 năm, tính đến nay đã có 250.000 người nhiễm bệnh, trong đó có 92.000 người tử vong. Nhưng trong suốt 9 năm vừa qua, những con số này đều được giảm đáng kể, đó là nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, đảng ủy, chính quyền và nhân dân cùng sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế”.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại lễ mít tinh sáng ngày 26/11.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại lễ mít tinh sáng ngày 26/11.
Bà Marie Odile Emon – Giám đốc Quốc gia Cơ quan phối hợp của Liên hiệp quốc về phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam (UNAIDS) cũng khẳng định, năm 2017 là một năm ghi nhận các thành tựu đầy ấn tượng về công cuộc phòng, chống HIV/AIDS. Việt Nam đã triển khai toàn diện, hiệu quả các dịch vụ can thiệp về dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS.
Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) đã phát động mục tiêu 90-90-90 (90% người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm bệnh của mình, 90% người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng vi rút và 90% người được điều trị kiểm soát được số lượng vi rút ở mức thấp để sống khỏe mạnh và làm giảm nguy cơ lây truyền HIV cho người khác) ở cấp độ toàn cầu để tiến tới kết thúc dịch AIDS vào năm 2030.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên của khu vực châu Á – Thái Bình Dương cam kết thực hiện chương trình này. Tuy nhiên, trước mắt vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức và vô vàn công việc phải hoàn thành.
Toàn dân cam kết chung tay đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS.
Toàn dân cam kết chung tay đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS.
Phó Thủ tướng nhắc về đại dịch HIV xuất hiện cách đây 35 năm đã gây ra hoảng loạn ở rất nhiều quốc gia. “Trước đây, đại dịch HIV lây lan rất nhanh chóng vì không có thuốc chữa trị, thậm chí còn bị gắn với vấn đề đạo đức. Nhưng hiện nay, công việc cấp thiết cần làm là phải nâng cao nhận thức để toàn dân hiểu đây là một căn bệnh chứ không phải tội lỗi hay điều xấu xa. Ở Việt Nam, cứ 100 người bị nhiễm HIV thì có 75 người đi khám và phát hiện bệnh. Tỉ lệ này nhìn chung đã cao hơn so với Thế giới”.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền để người nhiễm HIV được điều trị bằng ARV cũng được đề cập và chú trọng. Được biết, 90% người bệnh được điều trị có thể hòa nhập với cuộc sống bình thường, thậm chí kết hôn, sinh con hoàn toàn khỏe mạnh.
Trước đây, hầu hết kinh phí cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, đặc biệt là thuốc ARV là do nguồn viện trợ của quốc tế. Nhưng trong thời gian sắp tới, chính phủ Việt Nam sẽ dành thêm ngân sách, đồng thời cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV.
Phó Thủ tướng cùng lãnh đạo các cấp, ban, ngành, các tổ chức xã hội tham gia diễu hành sau buổi lễ mít tinh.
Phó Thủ tướng cùng lãnh đạo các cấp, ban, ngành, các tổ chức xã hội tham gia diễu hành sau buổi lễ mít tinh.
“Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, cả xã hội cần tạo điều kiện để những người đã lây nhiễm và có nguy cơ lây nhiễm không bị kỳ thị, được điều trị, giúp đỡ kịp thời. Chúng ta phải chung tay để thực hiện mục tiêu 90 – 90 – 90, không nơi lỏng nỗ lực để đẩy xa hoàn toàn đại dịch”, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam kêu gọi.
Sau lễ mít tinh buổi sáng ngày 26/11, các học sinh, sinh viên, lực lượng vũ trang đã tham gia diễu hành nhằm tạo ra phong trào sâu rộng, khẳng định sự đồng tâm hợp lực của cả hệ thống chính trị và của toàn dân đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Cũng nhân dịp này, Quỹ Hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS Bộ Y tế cùng nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã hỗ trợ, tặng quà cho các em nhỏ đang điều trị tại Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hải Dương.
Hoàng Ngọc

72 năm – Những dâu mốc lịch sử và thành tựu phát triển của ngành Nông nghiệp Việt Nam

Trải qua 72 năm xây dựng và phát triển, ngành Nông nghiệp Việt Nam dù có nhiều khó khăn, thách thức, songtrong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, ngành Nông nghiệp nước nhà vẫn luôn giành được nhiều thành tựu to lớn, làm tròn vai trò nền tảng, trụ đỡ cho kinh tế nước nhà. Nhân kỷ niệm 72 năm ngày truyền thông của ngành Nông nghiệp và PTNT Việt Nam (14/11/1945 – 14/11/2017) chúng ta cùng ôn lại một số mốc lịch sử mà nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã trải qua gắn liền với sự nghiệp cách mạng, đấu tranh giành độc lập tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Bác Hồ dùng thử máy cấy cải tiến mới
1. Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc (1945-1975), nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã chiến thắng nạn đói, tham gia hiệu quả công cuộc kháng chiến, kiến quốc, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của "hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn".
Chỉ hai ngày sau khi có quyết nghị thành lập, Bộ Canh nông đã công bố:
"Bộ Canh Nông vừa mới lập ra sẽ có hai nhiệm vụ hiện tại và tương lai:
- Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ để giải quyết một phần vào nạn đói đang đe dọa đồng bào.
- Sửa soạn một nền tảng chấn hưng nông nghiệp để mở đường phát triển cho một nền kinh tế nông nghiệp quốc gia sau này”.
Trong thư  “Gửi nông gia Việt Nam” ngày 7 tháng 12 năm 1945, Hồ Chủ tịch trực tiếp kêu gọi: “Hiện nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam. “Thực túc” thì “binh cường”, cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện “tấc đất, tấc vàng” thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập. Hỡi anh em nhà nông, tiến lên”.
Thực hiện lời kêu gọi của Bác, Chính phủ yêu cầu tất cả ruộng đất đều phải được canh tác. Phong trào thi đua sản xuất được phát động sâu rộng trong cả nước bằng nhiều hình thức.
Bộ Canh nông cũng đã phát động phong trào phát huy sáng kiến, tìm cách quay vụ, tăng vụ. Nhiều sáng kiến đã xuất hiện, giúp nông dân có thêm lương thực.
Nhờ các phong trào thi đua, sức mạnh của nông dân được khơi dậy, tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm nhanh chóng được đẩy mạnh. Vụ mùa năm 1946 ở Bắc Bộ đã đạt gấp đôi năm 1945. Nạn đói đã bị đẩy lùi. Trong diễn văn kỷ niệm một năm Quốc khánh 2 tháng 9 (năm 1946), Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ngày ấy tuyên bố: “Cách mạng đã chiến thắng nạn đói. Thực là một kỳ công của chế độ dân chủ”.
Thanh niên thời kỳ “3 sẵn sàng”
2. Trong những năm tháng của thời kỳ khôi phục đất nước sau chiến tranh (thời kỳ 1975- 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã phấn đấu vượt qua khó khăn đi tiên phong trong công cuộc Đổi mới đất nước.
Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1976-1980 có nội dung: “Tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; .. nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thông dụng”. Thực hiện chủ trương đó nhiều biện pháp đã được triển khai thực hiện để phát triển sản xuất nông nghiệp trên phạm vi cả nước, đồng thời cải tạo nông nghiệp ở Nam Bộ. Trong quá trình đó, những nhân tố Đổi mới đã hình thành. Dựa trên những thử nghiệm thành công từ cơ sở tại Hải Phòng, Vĩnh Phúc, ngày 13/1/1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100 CT/TW   về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” đã tạo ra động lực mới trong nông nghiệp. Ngành Thủy sản đã thực hiện thí điểm cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” tháo gỡ được nhiều khó khăn, tiếp cận được nhiều thị trường các nước, tạo ra hướng phát triển mới quan trọng.
Giai đoạn 5 năm (1981-1985), sản xuất nông nghiệp đã đạt mức tăng trưởng bình quân hằng năm 4,9% ; sản xuất lương thực đạt bình quân đạt 17 triệu tấn/năm so với mức tương ứng là 1,9%/năm và 13,4 triệu tấn/năm trong các năm 1976-1980.
3. Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng (thời kỳ 1986-2015), nông nghiệp và nông thôn liên tục giành được những thành tựu to lớn và toàn diện,góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, nhất là sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (năm 1988), nhiều chính sách đổi mới toàn diện đã được thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp. Ruộng đất được khoán và sau năm 1993 được giao để nông dân sử dụng ổn định lâu dài với các quyền ngày càng lớn hơn. Thị trường nông sản, vật tư nông nghiệp trong nước được tự do hóa, từng bước kết nối, liên thông với thị trường quốc tế. Nhà nước tiếp tục huy động các nguồn lực và đổi mới cách thức hỗ trợ cho nông dân, tiếp tục đầu tư lớn phát triển thủy lợi và cơ sở hạ tầng nông thôn, hình thành hệ thống khuyến nông và tín dụng để hỗ trợ trực tiếp tới các hộ nông dân. Các HTX chuyển hẳn sang làm dịch vụ cho xã viên. Nhiều nông lâm trường thực hiện khoán lâu dài đất đai, vườn cây cho gia đình công nhân.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị thực sự đã tạo nên một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, đem lại động lực vô cùng to lớn động viên nông dân đem hết khả năng, công sức đầu tư phát triển sản xuất. Động lực ấy vẫn còn đang tác động cho đến tận ngày nay. Chính nhờ có đường lối Đổi mới, nông nghiệp nước ta đã liên tục phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng giá trị gia tăng bình quân giai đoạn 1986-2014 đạt  3,65%,cao hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới (2%).
Nhờ tăng trưởng nhanh, nông nghiệp đã cung ứng đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của nhân dân trong nước, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Trên cơ sở đó, các lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp khác cũng đã phát triển mạnh mẽ trở thành các ngành sản xuất hàng hoá quy mô lớn.
Sau thời kỳ thiếu lương thực kéo dài, từ năm 1989 nước ta đã trở thành nước xuất khẩu lương thực. Nhiều ngành sản xuất nông lâm thủy sản cũng đã hướng ra xuất khẩu. Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486,2 triệu USD, năm 2000 đạt 4,2 tỷ USD, nhưng đến năm 2016, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của cả nước vẫn đạt 32,18 tỷ USD, tăng 5,7% (tương đương 1,7 tỷ USD) so với năm 2015. Việt Nam trở thành một trong số 20 nước xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn trên thế giới. Hiện nay, nước ta đã có 10 mặt hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu đạt kim ngạch hằng năm trên 1 tỷ USD, trong đó, có nhiều sản phẩm có vị thế cao trên thị trường thế giới. Nông nghiệp nước ta đã trở thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc. Sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nông dân, làm cơ sở ổn định và phát triển kinh tế-xã hội trong nước. Những thành tựu này cũng góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.


omard.gov.vn

Việt Nam là nước có thành tựu cao về bình đẳng giới

09/11/2017 05:00
Sáng nay 9/11, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung - Chủ tịch Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ - trình bày Báo cáo về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới tại phiên họp toàn thể. Đây là lần đầu tiên nội dung bình đẳng giới được đưa ra thảo luận tại Quốc hội và truyền hình trực tiếp.
Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo thẩm tra về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Sau đó Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Cũng trong buổi sáng, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội nêu.
 Việt Nam là nước có thành tựu cao về bình đẳng giới - Ảnh 1
Lần đầu tiên trong lịch sử, cơ quan lập pháp quốc gia có Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Quốc hội thường trực là nữ

Nội dung được các đại biểu Quốc hội quan tâm tại kỳ họp  
Trong quá trình phát triển của đất nước, công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện để thực hiện tốt hơn mục tiêu bình đẳng giới.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang từng bước nỗ lực thúc đẩy thực hiện cam kết quốc tế thông qua việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi hệ thống chính sách, pháp luậtvề bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ nói chung, về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng.
Việt Nam là một trong những nước có thành tựu về bình đẳng giới cao được quốc tế ghi nhận. Liên hợp quốc đánh giá việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.
Trao đổi bên hành lang Quốc hội, nữ đại biểu Trần Thị Quốc Khánh (đoàn Hà Nội) cho biết, phiên thảo luận tại hội trường về Mục tiêu bình đẳng giới là một trong những nội dung bà hết sức quan tâm ở kỳ họp này. 
“Trước hết cũng phải đánh giá những mặt được. Lần đầu tiên đưa ra tại kỳ họp, có thể thấy đây là một sự kiện được Quốc hội quan tâm. Hiện nay, phụ nữ đang đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội, Bộ trưởng. Rồi ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy”, bà Khánh cho biết.
Việt Nam là nước có thành tựu cao về bình đẳng giới - Ảnh 2
Các nữ đại biểu Quốc hội trao đổi với Bộ trưởng Đào Ngọc Dung bên hành lang Quốc hội

Đồng quan điểm, đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng (đoàn Bến Tre) cho biết: “Báo cáo này chúng tôi đã cho ý kiến hoàn thiện để gửi Quốc hội. Và lần đầu tiên UB TVQH xem xét, đưa ra trình trước Quốc hội để thảo luận công khai. Đây là vấn đề, theo tôi, là sự sáng suốt của UB TVQH, vì bình đẳng giới cũng là vấn đề thể hiện rõ xu thế hiện nay của đất nước”. 
Quan tâm tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử
Nhiều đại biểu cũng cho rằng, hiện nay ở địa phương, công tác này chưa được tích cực. Nói cách khác là chưa được bài bản như Trung ương. Các địa phương cần hết sức quan tâm đặc biệt đến vấn đề tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, tham gia HĐND, UBND, tham gia các vị trí lãnh đạo ở các ngành, các cấp.
“Ví dụ, trong UBND các cấp dứt khoát phải có tỷ lệ nữ tham gia nhất định. Nếu chưa có nữ, dứt khoát phải để chỉ tiêu đó lại, tìm bằng được nữ để thay thế. Muốn được như vậy, cần phải đào tạo, bồi dưỡng, tạo cơ hội cho phụ nữ tiếp cận, để khi “anh” muốn đưa người ta vào vị trí nào đó thì họ có đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện. Nếu“anh” chưa chuẩn bị trước, đến khi cần, thì không thể có được nguồn. Tức là phải chú ý công tác tạo nguồn từ rất sớm”, đại biểu Bùi Sỹ Lợi (đoàn Thanh Hóa), Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội nêu.
Việt Nam là nước có thành tựu cao về bình đẳng giới - Ảnh 3
Tỷ lệ ĐBQH là nữ trong Khóa XIV cao hơn Khóa XIII 
Mặt khác, cũng theo ông Bùi Sỹ Lợi, quy định hiện hành về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ (bao gồm cả cán bộ, công chức) thấp hơn nam giới là một chính sách của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện để phụ nữ chăm lo gia đình, bảo vệ sức khỏe, đáp ứng nhu cầu của lao động nữ, phù hợp với bối cảnh lịch sử khi chính sách ra đời vào những năm 60 của thế kỷ trước, có thể được coi như là một "biện pháp đặc biệt tạm thời" nhằm bảo đảm bình đẳng nam và nữ. 
Song đến nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xã hội, tuổi nghỉ hưu của một bộ phận lao động nữ là vấn đề cần phải quan tâm. Do đó, Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH đã và đang nghiên cứu, điều tra, tổng kết, đánh giá để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp với thực tiễn.
Theo xếp hạng của Liên hợp quốc về chỉ số bình đẳng giới (GII) năm 2014, Việt Nam xếp thứ 60/154 quốc gia trên thế giới. Chúng ta đã có những bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới. 
Hiến pháp 2013, Luật Bình đẳng giới, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X "Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" đã đưa ra chỉ tiêu: phấn đấu đến năm 2020, nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp từ 35% đến 40%. Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011- 2020 cũng xác định phấn đấu tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021 là trên 35%. 
Theo số liệu thống kê, về sự tham gia của phụ nữ trong Quốc hội, Việt Nam đã có sự tiến bộ đáng kể trong việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan dân cử, từ con số 3% nữ đại biểu Quốc hội tham gia khóa I đến tỷ lệ 26,72% đại biểu Quốc hội khoá là nữ của Quốc hội khóa XIV. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có Chủ tịch Quốc hội là nữ: Nguyễn Thị Kim Ngân.
Trong cơ quan dân cử ở địa phương, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 cấp tỉnh đạt 26,54% (tăng 1,37%); cấp huyện đạt 27,85% (tăng 3,23%) và cấp xã đạt 26,59% (tăng 4,88%).
THANH NHUNG

Báo Philippines: Việt Nam – Ngôi sao đang nổi của nền kinh tế toàn cầu

Phạm Khánh | 
Báo Philippines: Việt Nam – Ngôi sao đang nổi của nền kinh tế toàn cầu
Toàn cảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Nguyễn Tân Tuân.

Hôm 6/11, tờ Inquirer (Philippines) đăng bài bình luận cho rằng Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn về hội nhập kinh tế toàn cầu, tăng trưởng kinh tế nhanh trong 30 năm qua và là ngôi sao đang nổi trên bản đồ kinh tế toàn cầu.

Infonet xin giới thiệu sơ lược bài bình luận có tựa đề “Việt Nam hội nhập toàn cầu: Giờ là lúc hội nhập trong lĩnh vực tài chính” được đăng tải trên tờ Inquirer của Philippines hôm 6/11.
Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và đạt được nhiều thành tựu khi luôn có mức tăng trưởng kinh tế cao trong vòng 30 năm qua.
Đã mười năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiện nay Việt Nam có quan hệ thương mại với khoảng 200 quốc gia, vùng lãnh thổ và có quan hệ đầu tư với 114 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Việt Nam cũng đang thảo luận về bốn FTA khác gồm Hiệp hội Hợp tác Kinh tế Khu vực Toàn diện (RCEP), FTA ASEAN - Hồng Kông (Trung Quốc), và FTA với Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu và FTA với Israel.Việt Nam đã ký kết hoặc đang tham gia đàm phán rất rất nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương (FTA), bao gồm các thỏa thuận FTA thế hệ mới với quy mô lớn và có các cam kết ở tầm cao như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Việc tăng cường các mối quan hệ kinh tế toàn cầu cũng giúp xây dựng các mối quan hệ tài chính sâu rộng hơn. Quá trình tự do hóa thuế quan thông qua các FTA của Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ. Việt Nam đang sẵn sàng mở cửa các dịch vụ tài chính để thực hiện các cam kết cũng như thực hiện những cải cách cấu trúc kinh tế toàn diện.
Việt Nam là một ngôi sao đang nổi trên bản đồ kinh tế toàn cầu. Từ một trong những nền kinh tế phát triển kém nhất thế giới, Việt Nam đã trở thành một trong những nước có thu nhập trung bình. Trong thập kỉ qua, tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng trung bình 6,29%/năm; năm 2017 dự kiến sẽ đạt 6,7%.
Báo Philippines: Việt Nam – Ngôi sao đang nổi của nền kinh tế toàn cầu - Ảnh 1.
Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong hội nhập kinh tế toàn cầu.
Xuất khẩu có thể vượt hơn 200 tỷ USD, gấp 4,4 lần so với năm 2006. Trong khi đó, trong 10 tháng đầu năm nay, Việt Nam đã thu hút được 28,24 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tăng 37,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến hết tháng 9/2017, vốn hóa thị trường chứng khoán tháng 9 đã lên tới 93% GDP, mức cao nhất kể từ khi thị trường được thành lập vào năm 2000.
Ông Wayne Golding Obe, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC, cho biết, Việt Nam đang có chiến lược đúng đắn. Ông nói: “ Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam đang chứng minh với thế giới và các thành viên APEC rằng Việt Nam đang phát triển và đang hội nhập”.
Là chủ nhà của APEC năm 2017, Việt Nam nêu ra bốn ưu tiên cho hợp tác tài chính, nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ các thành viên khác cũng như các tổ chức tài chính quốc tế: Đầu tư dài hạn vào cơ sở hạ tầng; Chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận, Tài chính và bảo hiểm rủi ro thiên tai, và Tài chính bao trùm.
Khu vực Châu Á Thái Bình Dương được coi là khu vực quan trọng nhất trong thời đại của chúng ta với 21 nền kinh tế bao gồm các nước dẫn đầu như Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản và hầu hết các nền kinh tế đang phát triển năng động như Hàn Quốc, Indonesia, Philippines và Việt Nam. Năm 2015, các nền kinh tế thành viên của APEC chiếm 57% sản xuất và 46,5% thương mại toàn cầu.
Tăng cường hội nhập tài chính trong khu vực được cho là sẽ tạo thuận lợi cho tăng trưởng thương mại và đầu tư trong khu vực cũng như thúc đẩy các lĩnh vực khác như phát triển tài chính sâu rộng hơn và tăng nguồn tài chính cho cơ sở hạ tầng.
Với vai trò là người ủng hộ hội nhập kinh tế toàn cầu, hồi tháng 1/2016, Việt Nam đã thông qua Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, tận dụng các điều kiện toàn cầu thuận lợi để biến Việt Nam thành một đất nước công nghiệp hóa hiện đại, nâng cao mức sống, nâng cao uy tín của đất nước trên toàn cầu.
Cùng với các nền kinh tế thành viên APEC khác, Việt Nam luôn tìm kiếm cơ hội hợp tác trong lĩnh vực tài chính trong khuôn khổ các FTA song phương và đa phương. Trong khuôn khổ song phương, Việt Nam đã tích cực hợp tác với các nền kinh tế khác trong các lĩnh vực như thuế và hải quan. Việt Nam đã ký 76 hiệp định tránh đánh thuế hai lần, trong đó có nhiều hiệp định với các nền kinh tế thành viên APEC. Một thỏa thuận tương tự với Mỹ đang chờ phê chuẩn.
Tự do hoá các dịch vụ tài chính và tăng cường hợp tác tài chính sẽ mang lại lợi ích cho các nền kinh tế bằng cách loại bỏ các rào cản bảo vệ và cải thiện việc tiếp cận các tổ chức, công ty tài chính nước ngoài, tạo sân chơi bình đẳng, nâng cao chất lượng dịch vụ và thu hút vốn nước ngoài tốt hơn.
theo Infonet

Báo Malaysia đánh giá cao thành tựu phát triển của Việt Nam


Thứ Ba, 7/11/2017 09:42
(ĐTTCO)-Tờ The Malaymail mới đây đã có bài viết với tiêu đề “APEC giúp Việt Nam thúc đẩy đổi mới và phát triển bao trùm,” trong đó giới thiệu về sự kiện Hội nghị Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) 2017 tại Việt Nam.



Đồng thời, bài báo cũng như đưa ra đánh giá rất tích cực đối với các thành tựu của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới.

Tờ The Malaymail nhận định trong suốt quá trình tham gia APEC, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.

Cụ thể, APEC chiếm 78% đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), 79% giá trị thương mại quốc tế và 79% lượng du khách quốc tế của Việt Nam. Trong tổng số 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký hoặc đang đàm phán thì có tới 13 FTA là với các đối tác trong APEC.

Về kinh tế trong nước, Việt Nam đã tạo đà cho khu vực tư nhân tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp ngày càng nhiều vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

An sinh xã hội và phúc lợi phát triển tốt, đặc biệt trong việc giảm nghèo, tạo việc làm, bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người có công với đất nước và chính sách bảo hiểm y tế.

Với GDP hơn 200 tỷ USD, Việt Nam đang chứng kiến kinh tế ngày càng tăng trưởng, đổi mới và phát triển bao trùm khi tham gia APEC.

Bên cạnh những thành tựu xuất sắc này, Việt Nam vẫn là một trong những nơi có chi phí sản xuất rẻ ở Đông Nam Á, trong khi chất lượng các sản phẩm xuất khẩu lại tương đối đáng tin cậy.

Chính danh tiếng này đã giúp thu hút thêm đầu tư, tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời giúp mở rộng sản xuất xuất khẩu.

Trong quá trình phát triển, nền kinh tế Việt Nam đã thành công trong việc mở rộng, giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lý kể từ những năm 80 của thế kỷ trước.

Thành công của Việt Nam dựa trên các chính sách thực hiện trong công cuộc Đổi Mới, theo đó mở ra thị trường cho đầu tư nước ngoài và tạo cơ hội cho người dân địa phương tham gia vào các doanh nghiệp tư nhân, giúp người dân cải thiện điều kiện kinh tế.

Nhìn chung, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, chuyển từ một đất nước lạc hậu với 90% dân số làm việc trong ngành nông nghiệp sang một trong những nền kinh tế năng động nhất ở châu Á.

Sau ba thập kỷ, mức sống của người dân Việt Nam đã được cải thiện, trong khi số lượng doanh nhân tăng theo cấp số nhân đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Theo The Malaymail, các sự kiện APEC 2017 tại Việt Nam cũng phản ánh sự đổi mới và phát triển bao trùm nhanh chóng của Hà Nội, cũng như thể hiện những nỗ lực của Việt Nam trong hợp tác sâu rộng với khu vực.

Chủ đề của APEC 2017 đã nhấn mạnh mục tiêu chung và lâu dài của APEC trong việc xây dựng một cộng đồng hòa bình, ổn định, hòa nhập và thịnh vượng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Các mục tiêu chính của APEC năm nay là thúc đẩy tăng trưởng bền vững, sáng tạo và tăng trưởng bao trùm, tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, tăng cường năng lực cạnh tranh và đổi mới của các doanh nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ (MSME) trong thời đại kỹ thuật số và tăng cường an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững trong ứng phó với biến đổi khí hậu.

TTXVN

Economic Times: APEC 2017 – Sự công nhận thành tựu kinh tế của Việt Nam

Thứ hai, 06/11/2017, 11:30 (GMT+7) 
“Việt Nam, một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, với tư cách là chủ nhà, đã nỗ lực hài hòa lợi ích, tìm kiếm nền tảng chung để thu hẹp sự khác biệt và thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên APEC”.
Đó là một trong nhiều nhận xét tốt đẹp mà tờ The Ecomic Times đã dành cho Việt Nam trong một bài bình luận được đăng tải hôm 4/11. The Economic Times là một nhật báo tiếng Anh được xuất bản tại Ấn Độ lần đầu vào năm 1961. Đây là tờ báo kinh doanh bằng tiếng Anh được đọc nhiều thứ hai thế giới, chỉ xếp sau tờ The Wall Street Journal của Mỹ.
Infonet xin giới thiệu sơ lược bài bình luận có tựa đề “Hội nghị thượng đỉnh APEC: Sự công nhận thành tựu kinh tế của Việt Nam và những thách thức sắp tới”:
Trung tâm Báo chí Quốc tế (IMC) đã sẵn sàng đón hàng nghìn phóng viên từ các cơ quan thông tấn trong và ngoài nước tới tác nghiệp tại APEC 2017.
Cả thế giới đang hướng sự chú ý về Hội nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra từ ngày 10 và 11/11 tại Việt Nam, một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất – trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang suy thoái.
Việt Nam, với vai trò là nước chủ nhà, đã cố gắng hài hòa lợi ích, tìm kiếm nền tảng chung để thu hẹp sự khác biệt và thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên APEC.
Trong Tuần lễ cấp cao APEC, lãnh đạo của các thành viên APEC sẽ tập trung thảo luận về phát triển bao trùm về kinh tế, tài chính, xã hội và nguồn nhân lực trong kỉ nguyên số, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngày nay, Việt Nam được đánh giá là một nền kinh tế được định hướng bởi những cải cách sáng suốt, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong vài thập kỉ qua. Bắt đầu từ một nền kinh tế nhỏ và lạc hậu bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, bị tụt lại phía sau khu vực và thế giới và với điều kiện sống cực kỳ khó khăn, nhưng Việt Nam đã nỗ lực để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh chóng để cải thiện cuộc sống của người dân và củng cố đất nước.
Việt Nam đã nỗ lực hài hòa lợi ích, tìm kiếm nền tảng chung để thu hẹp sự khác biệt và thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên APEC.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã chọn một chiến lược phát triển quốc gia nhanh và bền vững. Các kì Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhất quán phát triển nhanh và bền vững.
Khái niệm phát triển nhanh và bền vững của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được lấy cảm hứng từ kinh nghiệm toàn cầu về phát triển nhanh và bền vững. Phát triển nhanh và bền vững là một quá trình tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong một thời gian dài. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định sự phát triển bền vững, con người là trung tâm, khoa học và công nghệ là động lực cho sự phát triển.
Từ năm 2001-2010, Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, trên 7% mỗi năm. Trong giai đoạn 2006-2016, tốc độ tăng trưởng kinh tế có giảm nhưng vẫn đạt mức trung bình khoảng 6.12% / năm, mức khá cao trong bối cảnh thế giới cũng như khu vực đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Bằng việc đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng Đỉnh APEC 2017, Việt Nam đã thu hút sự chú ý, quan tâm của cả khu vực và thế giới. Trước đó, tờ Bangkok Post (Thái Lan) cũng bình luận rằng, tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC từ ngày 10-11/11 tới, Việt Nam sẽ tỏa sáng, đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Theo Bangkok Post, sự thành công của APEC sẽ tăng cường mạnh mẽ vai trò dẫn đầu của Việt Nam trong ASEAN. Hiện tại, Hà Nội đang chuẩn bị cho vai trò Chủ tịch ASEAN vào năm 2020 để ASEAN hoạt động hiệu quả hơn, tăng cường vị trí trung tâm của ASEAN cũng như các mối quan hệ đối ngoại của ASEAN, xây dựng cộng đồng ASEAN vững chắc hơn bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa các thành viên cũ và mới.

(Theo Infonet)

Báo Nhật Bản ca ngợi thành tựu của Việt Nam sau 30 năm đổi mới

Thứ 5, 12:00, 02/11/2017
VOV.VN - Bài báo đã nêu bật những thành tựu của nền kinh tế và cho rằng Việt Nam đang ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng hơn sau hơn 30 năm.
Trước thềm Hội nghị APEC, tờ NSN Nikkei của Nhật Bản ngày 1/11 đăng bài “Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế của Việt Nam sau 30 năm đổi mới”, trong đó nêu bật những thành tựu của nền kinh tế và cho rằng Việt Nam đang ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng hơn sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới.
Bài báo nhận định môi trường đầu tư của Việt Nam liên tục được cải thiện, ngày càng thu hút được nhiều doanh nghiệp nước ngoài, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại.
bao nhat ban ca ngoi thanh tuu cua viet nam sau 30 nam doi moi hinh 1
Báo NSN Nikkei ca ngợi thành tựu của Việt Nam sau 30 năm đổi mới.
Việt Nam đã đạt những thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế, khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu, đa thành phần, nhiều hình thức phân phối.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều phát triển. Các chủ thể kinh tế đóng vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật: Hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, được cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tư nhân tăng nhanh; FDI được khuyến khích phát triển.
Về hội nhập kinh tế quốc tế, bài báo cho rằng, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN năm 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO, 59 quốc gia đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương; hoàn tất đàm phán FTA với EU; đang tích cực đàm phán 3 FTA khác. Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu, đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng; chuỗi giá trị hàng dệt may và da giày./.
Việt Dũng/VOV-Tokyo

Truyền thông Argentina ca ngợi thành tựu kinh tế của Việt Nam

16:02 | 30/10/2017

Mới đây, trang mạng Equilibrium Global (Argentina) đã đăng bài viết của GS. Julio Sevares, Đại học Buenos Aires, trong đó đánh giá cao những thành tựu kinh tế của Việt Nam sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong bài viết, GS. Sevares - giảng viên ngành khoa học xã hội nhấn mạnh rằng, nhờ việc thực hiện chính sách Đổi mới, trong 15 năm gần đây, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng hơn 6,5%/năm, với bình quân thu nhập đầu người tăng 9 lần, đạt gần 2.200 USD vào năm 2016.
Bài viết dẫn thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) cho hay, 94,3% người dân Việt Nam biết đọc, biết viết; tuổi thọ trung bình là 72 tuổi; tỷ lệ người thất nghiệp chỉ ở mức 3,7%.
Trong cuộc chiến chống đói nghèo, Việt Nam đã giảm tỷ lệ người nghèo từ mức 58% (năm 2003) xuống chỉ còn 12% (năm 2016) và trong vòng 2 thập kỷ, 25 triệu người đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo cùng cực.
Thống kê của Liên hợp quốc, Việt Nam là một trong những quốc gia thành công nhất trong phát triển kinh tế và là một trong ít quốc gia đã hoàn thành Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, trước thời hạn Liên hợp quốc đề ra.
Việt Nam đề ra mục tiêu đạt bình quân thu nhập đầu người từ 3.200 USD - 3.500 USD trong giai đoạn 2016 - 2020.
truyen thong argentina ca ngoi thanh tuu kinh te cua viet nam
May mặc là một trong những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Argentina. (Nguồn: GENK)
Mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam tập trung vào xuất khẩu và đầu tư. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô và phát triển các ngành công nghiệp cần nhiều nhân công hướng tới các lĩnh vực có nhiều giá trị gia tăng, ví dụ như công nghệ phần mềm.
Trong giai đoạn 1995 - 2017, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng gấp 3 lần và hiện là nước có tổng kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 47 trên thế giới, với mức tăng trưởng trung bình 16%/năm.
Chính phủ Việt Nam hiện đang nỗ lực thúc đẩy cải cách các luật liên quan tới thuế, hải quan, đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân.
Giao thương giữa Việt Nam và Argentina đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Việt Nam hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Argentina sau Brazil, Trung Quốc và Mỹ.
GS. Sevares dẫn báo cáo của Viện Thống kê và Điều tra Argentina cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của nước này sang Việt Nam năm 2016 đạt 2,540 tỷ USD, chiếm 4% tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia Nam Mỹ. 70% hàng hóa xuất khẩu của Argentina sang Việt Nam là ngô và đậu tương.
Trong những năm gần đây, giá trị các mặt hàng xuất khẩu không truyền thống của Argentina sang Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng, trong đó có sản phẩm sinh học, dược phẩm, dụng cụ quang học.
Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu của Argentina từ Việt nam đạt 350 triệu USD. Việt Nam xuất khẩu đồ điện tử, giày dép và hàng may mặc sang Argentina.
Các chuyên gia Argentina nhận định, với hơn 90 triệu dân, Việt Nam là thị trường tiềm năng cho các sản phẩm thịt bò, thịt gia cầm, rượu vang, sữa tiệt trùng. Bên cạnh đó, các mặt hàng hoa quả của quốc gia Nam Mỹ này như táo, nho, việt quất nhập khẩu vào Việt Nam cũng đang phải cạnh tranh đáng kể với các nhà cung cấp khác như Australia.
Argentina cũng có thể hợp tác với Việt Nam trong nuôi trồng thủy sản, lĩnh vực mà quốc gia châu Á có rất nhiều kinh nghiệm.

Thành tựu đối ngoại Việt Nam trong những năm qua

19/10/2017 08:00:00
Trong những năm qua, kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ XI chúng ta chủ trương “triển khai đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các hoạt động đối ngoại” trên tất cả các kênh song phương và đa phương, dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân.
Trong những năm qua, bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, phức tạp và khó lường hơn. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, một số đối tác kinh tế lớn của chúng ta gặp khó khăn, giá cả một số mặt hàng, nhất là giá dầu, giảm sâu. Cạnh tranh và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, khủng bố quốc tế và bệnh dịch có xu hướng trầm trọng hơn. Một số vấn đề khu vực, nhất là tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo căng thẳng hơn giai đoạn trước.
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, trong đó xác định “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”.
Kiên định mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh”, trên cơ sở thế và lực của đất nước từng bước được nâng cao, phát huy các thành tựu đối ngoại trong gần 30 năm Đổi mới, công tác đối ngoại tiếp tục đạt được nhiều thành tựu, trong đó nổi bật là các thành tựu sau:
Thứ nhất, chúng ta đã giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả.
Hòa bình, ổn định là tiền đề cho sự phát triển bền vững của đất nước. Để bảo đảm điều kiện đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là không ngừng củng cố hợp tác hữu nghị và làm sâu sắc các mối quan hệ đối ngoại, tăng cường đan xen lợi ích, phát huy điểm đồng, giảm thiểu khác biệt trong quan hệ với mỗi đối tác. Bên cạnh việc tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt với Lào, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Campuchia, các mối quan hệ đoàn kết… Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới và kinh tế đất nước còn khó khăn, chúng ta đã tranh thủ được mạng lưới đối tác để phục vụ thiết thực ngay cho mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định, tái cơ cấu nền kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài… Quan hệ với các đối tác hàng đầu không chỉ phát triển mạnh trên kênh Nhà nước, Chính phủ, mà còn được đẩy mạnh trên cả kênh Đảng, Quốc hội, với nhiều hoạt động cấp cao vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa có nhiều nội dung hợp tác thực chất, hiệu quả. Đây là một trong những biểu hiện sinh động của việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Thành tựu đối ngoại Việt Nam trong những năm qua - 1
Trụ sở Bộ Ngoại giao
Thứ hai, công tác đối ngoại đã đóng góp tích cực và việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Trong những năm qua, chúng ta ngày càng chủ động, tích cực trong việc đàm phán và ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Giai đoạn 2013–2015 là giai đoạn cao điểm trong đàm phán, ký kết các FTA của Việt Nam. Ta đã hoàn thành ba FTA song phương với các đối tác quan trọng của Việt Nam, bao gồm FTA với Hàn Quốc (5/2015), FTA với Liên minh Kinh tế Á-Âu (5/2015) và FTA với Liên minh châu Âu (12/2015). Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 11 FTA khu vực và song phương, trong đó có sáu FTA trong khuôn khổ hợp tác ASEAN. Đặc biệt, đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam đã tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thành viên có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong Lộ trình AEC.
Tháng 10/2015, ta đã cùng các nước thành viên kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ta cũng tiếp tục đàm phán hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt được một thoả thuận kinh tế toàn diện, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN.
Ở cấp độ toàn cầu, tại Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tháng 12/2013, Việt Nam đã cùng với các thành viên WTO thông qua “Gói cam kết thương mại Bali”, khai thông bế tắc trong đàm phán trong khuôn khổ WTO đã kéo dài nhiều năm.
Cho đến giữa năm 2015, ta có quan hệ kinh tế-thương mại với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút trên 250 tỷ USD đầu tư nước ngoài (FDI). Trong năm năm qua, chúng ta đã vận động được thêm 36 đối tác mới, nâng tổng số đối tác chính thức công nhận quy chế kinh tế thị trường ở nước ta lên 59. Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút khách du lịch, đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại, áp đặt các rào cản thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và nhà nước ta.
Thứ ba, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Trong những năm qua, công tác biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia đều có tiến triển. Với Trung Quốc, hai bên đã ký Hiệp định quy chế tàu thuyền đi lại tại khu vực tự do đi lại ở cửa sông Bắc Luân và Hiệp định khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc. Chúng ta đã chủ động và tích cực duy trì đàm phán về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển. Hai bên đã đạt được “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”. Ngày 19/12/2015, hai bên đã khởi động khảo sát chung tại một số khu vực thỏa thuận ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, chuẩn bị triển khai một số dự án về hợp tác ít nhạy cảm trên biển để thực hiện mục tiêu phân định và hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Với Lào, hai bên hoàn thành dự án tăng dày tôn tạo hệ thống mốc giới, đạt được nhiều thỏa thuận trong việc phát triển đường biên giới hòa bình, hữu nghị. Với Campuchia, hai bên đã hợp tác tốt giữ gìn an ninh, trật tự và giải quyết ổn thỏa các vấn đề phát sinh ở khu vực biên giới; tiếp tục công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (hiện đã đạt trên 80%).
Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, đối ngoại đã thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sử dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp chính trị - ngoại giao, mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khôi phục lòng tin, thúc đẩy hợp tác hữu nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông. Chúng ta đã tranh thủ được công luận quốc tế lên tiếng ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách vô lý, phản đối các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật pháp quốc tế, nhằm duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và khu vực. Trong những năm qua, vấn đề Biển Đông là chủ đề được quan tâm và nêu trong nhiều Tuyên bố, văn kiện của nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương như ASEAN, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Nhóm nước G-7, EU…
Đối với các thế lực lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước, chúng ta đã sử dụng nhiều biện pháp, kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa, bảo vệ hệ giá trị Việt Nam. Năm năm qua, chúng ta đã chủ động tổ chức các cuộc đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế về các vấn đề này. Chúng ta cũng đã tăng cường công tác thông tin cho cộng đồng quốc tế về thực tế quá trình xây dựng và triển khai chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực này. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy lùi và vô hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng và Nhà nước ta trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo.
Trong những năm qua, nhiều hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường năng lực xây dựng và thực thi pháp luật cũng được mở ra, tạo cơ sở cho các đối tác hiểu rõ hơn những chuyển biến về chính sách và thực thi chính sách ở Việt Nam.
Thứ tư, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua việc nâng tầm đối ngoại đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Việt Nam đóng góp nhiều sáng kiến quan trọng tại các diễn đàn đa phương có tầm ảnh hưởng lớn như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, ASEM, hợp tác tiểu vùng Mekong… Vị thế của đất nước được nâng lên đáng kể với việc chúng ta đăng cai thành công Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132, đóng góp tích cực cho Liên hợp quốc trong việc xây dựng và thông qua Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, được các nước tin cậy bầu với số phiếu cao vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban kinh tế - xã hội Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2016-2018, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, lần đầu tiên tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (PKO).
Công tác đối ngoại đạt được những thành tựu kể trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những thành tựu quan trọng này còn là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc, nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của các cán bộ làm công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và đối ngoại nhân dân; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành và địa phương; sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả các bài học lớn còn nguyên giá trị thời đại của ngoại giao Việt Nam hiện đại, đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại tiếp tục là duy trì và củng cố vững chắc hơn môi trường an ninh và kinh tế đối ngoại, đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu và củng cố vững chắc vị thế của Việt Nam trong cộng đồng khu vực và quốc tế. Đây là những nhiệm vụ quan trọng đối với toàn Đảng và toàn dân ta. Việc hoàn thành các nhiệm vụ trên có thể gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn khi bối cảnh khu vực và thế giới vẫn tiếp tục phức tạp và chuyển biến rất nhanh. Với thế và lực của đất nước sau 30 năm Đổi mới và kiên định phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc, dựa vào nền tảng tư tưởng hòa hiếu của dân tộc xây dựng sự đồng lòng nhất trí trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, và luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại, công tác đối ngoại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh và thích ứng nhanh trước những biến chuyển của tình hình, tiếp tục đóng vai trò là mặt trận hàng đầu trong việc giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.