Saturday, July 30, 2016

Dân chủ trong Đảng - Chìa khóa của phát triển và thành công

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”; “Nước ta là nước dân chủ… Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".


Sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được thể hiện ở bản chất dân chủ. Dân chủ không chỉ là hệ quy chiếu đánh giá chất lượng của Đảng, mà còn là sự bảo đảm cho chiều hướng phát triển bền vững và thành công của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn tám mươi năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây cũng là kết quả của cuộc vận động vì dân chủ, bảo đảm cho Đảng bước lên vũ đài chính trị, lãnh đạo dân tộc ta đấu tranh chống chế độ chuyên chế thực dân, phong kiến nhằm giành quyền làm chủ của nhân dân, quyền tự quyết của dân tộc. Đây không chỉ là khát vọng ngàn đời, nguồn sức mạnh của nhân dân Việt Nam mà còn là mục tiêu để mọi người dân cần lao tiến bộ trên thế giới hướng tới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đáp ứng khát vọng dân chủ cháy bỏng ngàn đời của nhân dân ta vì quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[1]; “Nước ta là nước dân chủ… Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân[2]. Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả tinh thần đại đoàn kết của toàn dân tộc và dân chủ được phát huy cao độ.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á - mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, không chỉ đưa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ thành dân tộc bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới, mà còn là cơ sở, nền tảng, pháp lý để  dân tộc Việt Nam thực hành dân chủ trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội năm 1946 - lần đầu tiên người Việt Nam được cầm lá phiếu bầu ra người đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng thiêng liêng của mình. Những lá phiếu của nhân dân là cơ sở để Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta vào năm 1946.
Qua quá trình lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, người Việt Nam không chỉ nhận rõ vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn cùng Đảng thực thi vị trí, vai trò trung tâm, phát huy sở trường, thế mạnh của mình, tạo động lực cơ bản cho sự phát triển bền vững của dân tộc.Trong cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của nước ta, nhân dân luôn ở vị trí tối thượng của quyền lực nhà nước và xã hội. Những vấn đề quan trọng này được Đảng ta đưa ra  lấy ý kiến của dân nhằm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Dân chủ luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong nội dung lãnh đạo của Đảng, hợp thành giá trị quy định bản chất của chế độ chính trị nước ta.
Để phù hợp với xu thế phát triển, Đảng ta không chỉ lấy ý kiến của nhân dân trước mỗi lần sửa đổi Hiến pháp mà còn lấy ý kiến của nhân dân trước các kỳ đại hội của Đảng. Trước Đại hội X của Đảng, hai chữ “dân chủ” chưa được đưa vào hệ thống của mệnh đề mục tiêu chung“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.Bởi, Đảng ta coi dân chủ là giá trị mặc nhiên của chế độ chính trị, mục tiêu mặc định của XHCN. Đến Đại hội lần thứ XI của Đảng, dân chủ được thể hiện trong mục tiêu và được đặt trước “công bằng” và “văn minh”: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây chính là điểm nhấn quan trọng  của Đại hội XI. TrongCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định:“Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm ”[3], nhằm nhấn mạnh, làm rõ thêm thực chất của chế độ chính trị XHCN ở Việt Nam. Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn  25 năm đổi mới , ngày 6-8-2011, Quốc hội thông qua Nghị quyết dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát huy dân chủ bảo đảm  tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngày 28-11-2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII chính thức thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Hiến pháp năm 2013. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ tiếp tục đổi mới đất nước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế, trong đó Điều 4 Hiến pháp tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta công khai, thẳng thắn chỉ ra: Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi mất đoàn kết nghiêm trọng…Không ít cấp ủy và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với ý kiến phản biện, những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình. Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít[4]
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) chỉ rõ: “Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân[5].
Một trong những dấu ấn của nhiệm kỳ Đại hội XI là việc thực hành dân chủ trong Đảng đã có những bước tiến vượt bậc. Lần đầu tiên, Đảng tiến hành việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và việc thực hiện chất vấn trong Đảng là những minh chứng cho thấy Đảng đang nỗ lực rất lớn để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng - một tiền đề quan trọng để thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội. Việc thực hành dân chủ trong Đảng được thể hiện rõ nét trong công tác cán bộ, phần nào khắc phục được tình trạng "trên bảo, dưới không nghe".
Thực tế cho thấy, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua, tiến trình bầu cử được tuân thủ một quy trình chặt chẽ, dân chủ, bình đẳng, khách quan, với tinh thần thượng tôn pháp luật. Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử và tự ứng cử được thực hiện theo một quy trình thống nhất, trong đó, việc tổ chức hiệp thương giữa các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Đây là một sự biểu hiện cụ thể tính chất ưu việt của chế độ dân chủ nước ta trong bầu cử; phản ánh trình độ dân chủ của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới, cần nhận thức rõ vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp, mọi đảng viên phải tự giác thực hiện và kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng, hành vi sai trái vi phạm dân chủ trong Đảng và xã hội. Thực hiện tốt nhiệm vụ này là giữ vững và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".


[1] Hồ Chí Minh - Toàn tập, t. 5, Nxb CTQG,    H. 2011, tr. 289.
[2] Sđd - t.6, tr. 232.
[3] ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 84 - 85.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa  XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22 - 23.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa  XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22.
Phạm Thị NhungTrường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội

Tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc(IV: Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh)

Trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và quá trình thực hiện nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tư duy, nhận thức của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược có sự phát triển toàn diện, sâu sắc hơn. Trong đó Đảng ta nhấn mạnh sự kết hợp các nhiệm vụ: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh1. Nếu như văn kiện của các đại hội trước đây mới nhấn mạnh sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế thì Đại hội XII đề cập sự kết hợp này với nội hàn rộng hơn; và đây chính là điểm mới, điểm phát triển tư duy của Đảng về bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm đó của Đảng hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, các nguồn lực trên các lĩnh vực (nội lực) để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Đồng thời, nó còn xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, biến động khó lường, tác động trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta với cả những thuận lợi, khó khăn và thách thức.
Trong mối quan hệ giữa các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm; văn hóa là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh quan trọng; quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; đối ngoại ngày càng có vị trí quan trọng. Mỗi lĩnh vực đó có vai trò, tầm quan trọng riêng, nhưng có mối quan hệ biện chứng, tác động, ràng buộc, hỗ trợ, thúc đẩy nhau trong quá trình phát triển. Vì thế không được coi nhẹ bất cứ nhiệm vụ nào, và điều quan trọng trong quá trình thực hiện phải đồng thời thực hiện kết hợp chặt chẽ với nhau ở mọi cấp độ, cả vĩ mô và vi mô trong mỗi khu vực, địa bàn cũng như trên phạm vi cả nước. Mục đích của sự kết hợp giữa các nhiệm vụ là phát huy nội lực, trên cơ sở khai thác thế mạnh của từng lĩnh vực, ngành, địa phương và cả đất nước; cùng với đó, phải tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, trước hết và thường xuyên là nhằm đánh bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm, là nền tảng vững chắc, nhằm tạo ra tiền đề vật chất kỹ thuật để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Sự kết hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng ưu tiên các công trình “lưỡng dụng”, vừa bảo đảm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa sẵn sàng phục vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Một nền kinh tế mạnh sẽ là một sự bảo đảm chắc chắn nhất cho sức mạnh quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, đầu tư cho quốc phòng phải phù hợp với khả năng của nền kinh tế; nếu tỷ lệ ngân sách quốc phòng, an ninh cao sẽ ảnh hưởng đến đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại nếu chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế - xã hội mà không chú ý đúng mức đến quốc phòng, an ninh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và không đáp ứng được yêu cầu bảo đảm cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Nhiệm vụ chủ yếu của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại.
Trong nền văn hóa Việt Nam, có một bộ phận tiêu biểu là văn hóa quân sự; văn hóa quân sự Việt Nam kết tinh thấm đẫm tinh thần của văn hóa dân tộc, đó là, lòng yêu nước, thương nòi, đức hy sinh, dũng cảm, tinh thần và ý thức cộng đồng, ý chí quyết tâm đánh giặc, tính nhân văn sâu sắc “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn/ Lấy chí nhân thay cường bạo”, “Cử quốc nghênh địch”,... Văn hóa quân sự còn là những tổng kết khoa học, lý luận, rút ra từ lịch sử dân tộc, tạo thành nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu thắng mạnh”, đánh giặc bằng chiến tranh nhân dân, nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang và đánh bại chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Phát triển văn hóa chính là xây dựng con người phát triển toàn diện, trong đó có quân nhân. Đó là xây dựng để cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có lòng yêu nước, có năng lực, trình độ cao, đủ khả năng tiếp nhận, làm chủ khoa học quân sự hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2. Đại hội XII của Đảng cũng xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo 04 đặc trưng: dân tộc - nhân văn - dân chủ - khoa học; trong đó, chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để mở ra điều kiện và cơ hội thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ và quốc phòng, an ninh, làm cho các giá trị văn hóa thực sự đi vào đời sống xã hội trong hệ thống chính trị và phát triển kinh tế, v.v.
Hiện nay, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta về văn hóa, nghệ thuật; chúng khuyến khích các khuynh hướng văn hoá, nghệ thuật độc lập với chính trị; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, nghệ thuật; phủ định văn học cách mạng, coi nhẹ văn hoá, nghệ thuật truyền thống dân tộc, các giá trị nền tảng tư tưởng, văn hoá Việt Nam (bản lĩnh chính trị, truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước...). Vì vậy, chúng ta phải tập trung bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng; kế thừa, phát huy truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và các hoạt động xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận những giá trị lịch sử của dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong phát triển văn hóa, nghệ thuật. Tích cực đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên lĩnh vực văn hoá. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động về tư tưởng - văn hoá, báo chí, xuất bản, v.v. Tổ chức tốt việc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng con người Việt Nam, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả, thiết thực trong hoạt động văn hoá với các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Sự ổn định xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để tăng cường quốc phòng, an ninh. Với đặc điểm đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh, hàng loạt vấn đề về xã hội do hậu quả chiến tranh để lại còn rất nặng nề; bên cạnh đó là những đặc điểm về dân tộc, tôn giáo, địa lý cũng tạo ra sự khác biệt về tư tưởng, phong tục, tập quán, kinh tế vùng miền, v.v. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề về xã hội; thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, “xóa đói, giảm nghèo”, v.v. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ yêu cầu “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”3. Vì vậy, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng, cần tiếp tục xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống chính sách xã hội phù hợp, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế, khu vực khó khăn; có giải pháp quản lý, giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội; ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề gây bức xúc xã hội. Giải quyết tốt các vấn đề đó sẽ bảo đảm sự ổn định xã hội và là điều kiện để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như tăng cường sức mạnh của quốc phòng, an ninh. Mặt khác, quốc phòng, an ninh phải thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên từng địa bàn và trên phạm vi cả nước. Lực lượng vũ trang nhân dân phải thực hiện tốt chức năng của “đội quân công tác”, tích cực tham gia “xóa đói, giảm nghèo” và giúp đỡ chính quyền và nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội,... góp phần nâng cao đời sống nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Đồng thời, thực hiện tốt nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, tình hình thế giới, khu vực, diễn biến phức tạp, khó lường, công tác đối ngoại có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển đất nước nói chung và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh nói riêng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ yêu cầu, mục tiêu của hoạt động đối ngoại: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”4. Trong mối quan hệ đó, hoạt động đối ngoại sẽ tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để gắn kết, thúc đẩy, nâng cao sức mạnh tổng hợp mọi mặt của đất nước; nhất là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và góp phần đẩy mạnh hiện đại hóa Quân đội nhân dân, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân, công an nhân dân. Đặc biệt, phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với đối ngoại; triển khai đồng bộ các biện pháp dự báo chính xác tình hình quốc tế, khu vực, nhất là những động thái, xu thế biến động của tình hình quốc phòng, an ninh; từ đó, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đối sách xử lý các tình huống, các vấn đề nhạy cảm, phức tạp một cách phù hợp, hiệu quả. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ yêu cầu “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”5. Vì thế, Quân đội nhân dân phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng làm công tác đối ngoại, nắm chắc tình hình, các động thái liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước để góp phần ngăn ngừa, triệt tiêu các nguy cơ gây chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cùng với đó, công tác đối ngoại còn góp phần xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam, làm giàu tri thức khoa học và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của hệ thống chính trị thông qua trao đổi, đào tạo với các nước tiên tiến. Qua đó, thúc đẩy thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện kết hợp giữa các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại là quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Vì thế, các ngành, các cấp, các địa phương phải quan tâm thực hiện tốt nhằm không ngừng tăng cường tiềm lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
MẠNH HÀ - MẠNH DŨNG - QUANG CHUYÊN
____________
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 34.
2 - Sđd, tr. 126
3 - Sđd, tr. 134.
4 - Sđd, tr. 153.
5 - Sđd, tr. 149.