Friday, July 15, 2016

Huyền thoại 11 cô gái sông Hương

48 năm trôi qua, nhưng những chiến công của 11 cô gái sông Hương lập nên trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn vang mãi. Mỗi khi nhắc đến, nước mắt lại trào dâng, hạnh phúc vì chiến thắng, nhưng lại tiếc thương các đồng đội đã ngã xuống.
1yaj_9a
 Bức ảnh kỷ niệm những cô gái sông Hương. Ảnh: Tư liệu
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã đi vào lịch sử dân tộc, như một bản anh hùng ca sáng chói. Trong đó, người dân Cố đô vẫn không thể quên hình ảnh và tinh thần chiến đấu dũng cảm của những người con gái sông Hương. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, 11 cô du kích sông Hương lên đường nhập ngũ vào cái tuổi mười tám, đôi mươi. Lúc đó, các cô được giao nhiệm vụ tải thương, dẫn đường cho bộ đội chủ lực mở cuộc tiến công. Những người con gái Huế với dáng vẻ bề ngoài nhẹ nhàng, đằm thắm nhưng bên trong là sự quật cường, gan dạ, kiên trung. Họ đã anh dũng chiến đấu đẩy lùi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ có xe tăng, máy bay yểm trợ ngay giữa mảnh đất Cố đô.
Chúng tôi tìm đến nhà cô Hoàng Thị Nở (số 131/1, đường Bà Triệu, TP Huế) - một trong 11 cô gái du kích sông Hương năm xưa. Cô Nở bồi hồi kể lại câu chuyện cũ đã đi vào lịch sử của dân tộc: "Quên sao được cái ngày mà những đồng đội thân thương của tôi đã ngã xuống. Hồi đó, tiểu đội tôi được giao nhiệm vụ nắm tình hình tại các địa điểm đóng quân của địch ở trên địa bàn TP Huế, chuẩn bị dẫn đường và tải thương khi bộ đội ta từ vùng ven đồng loạt tấn công vào thành phố. Tôi cùng các đồng đội vào vai con gái làng nón đưa sản phẩm làng nghề đi bán dạo cho người dân khắp khu vực phía Nam thành phố để thu thập tình hình".
"Ngoài ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội còn là giúp cho bộ đội chủ lực tiểu đoàn K2 đặc công, K10 và các đội biệt động nhắm đúng vào các mục tiêu, đánh địch, chiếm sở chỉ huy Phan Sào Nam, đánh chiếm căn cứ quân sự Hoa Mai, An Cựu, đánh vào khách sạn Hương Giang, Ty Cảnh sát Ngụy, Nha thẩm vấn nhà lao Lê Quý Đôn, Tiểu đoàn Cảnh sát dã chiến ở sân vận động Huế vào đêm mồng 1 Tết Mậu Thân" - cô Nở kể lại.
Đặc biệt, ngày 12-2-1968, 11 cô gái sông Hương đã tổ chức đánh địch phản kích từ hướng Thuận An lên, đẩy lùi một tiểu đoàn bộ binh Mỹ, tiêu diệt 120 tên tại ngã ba chợ Cống, phường Phú Hội (TP Huế), góp phần giữ vững địa bàn và bảo toàn lực lượng cho bộ đội chủ lực. Các chị tiếp tục bám địa bàn, giữ vững tay súng, kiên cường chống địch và thuyết phục những binh lính Ngụy trở về không làm tay sai cho địch nữa. Trước thắng lợi đó, Bác Hồ đã gửi thư khen ngợi với bốn câu thơ:
5788546545bcebba9e0002fd
 Cô Hoàng Thị Nở ngậm ngùi khi cầm trên tay cuốn sổ nhật ký của đồng đội Đỗ Thị Cúc. Ảnh: Phạm Hoàng
Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường
Bác khen các cháu dân quân gái
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương.
Cô Nở hào hứng kể: "Tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại, có xe tăng, máy bay yểm trợ, nhưng đây là đất mình, mình quen cứ bám địch mà đánh dần, theo kế hoạch đó mà làm tiêu hao sinh lực của địch". Đến tháng 4-1972, trong một trận đánh chống quân Mỹ-Ngụy càn xuống Kim Long, Đội trưởng Phạm Thị Liên đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn chưa quá đôi mươi, để lại sự tiếc thương trong lòng các đồng đội.
Cùng ăn, cùng sống với nhau đến khi hòa bình, chị em không được sum họp đầy đủ. Sau năm 1975, cô Hoàng Thị Nở về tiếp tục làm Phường đội trưởng Vĩnh Lợi, nay thuộc Phú Hội, TP Huế, rồi làm Chủ tịch Hội Nông dân giúp cho bà con trong vùng an cư, lập nghiệp. Những đồng đội khác, người thì đi ra miền Bắc lấy chồng, người về quê lập nghiệp xây dựng ước mơ còn dang dở. Giờ mỗi người một nơi, lại mang trên mình nhiều vết thương của bom đạn chiến tranh, có người còn bị nhiễm chất độc da cam dioxin. Vào dịp lễ, Tết và ngày kỷ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân, các chị gặp lại nhau ôn lại kỷ niệm chiến đấu và cùng nhau chia sẻ khó khăn trong cuộc sống. Họ cùng đi thăm mộ những đồng đội đã hy sinh và thăm cụ bà Nguyễn Thị Bờ (mẹ anh hùng Phạm Thị Liên, Tiểu đội trưởng của 11 cô gái sông Hương).
Những chiến công hiển hách trong lịch sử của 11 cô gái sông Hương đã được nhân dân TP Huế tôn vinh, là tượng đài "sống" về lòng dũng cảm và ý chí anh dũng kiên cường của những người con gái đất Cố đô.
Với những thành tích xuất sắc đạt được, năm 2008, Tiểu đội "11 cô gái sông Hương" đã được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tháng 4-2015, một tin vui đến với cô Nở và các đồng đội, đó là việc chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định xây dựng một khu tưởng niệm tại khu vực đường Bà Triệu, ngay sát khu vực chợ Cống, nơi diễn ra trận đánh đầu tiên của cả tiểu đội, để khắc ghi hình tượng những người con gái Huế trung dũng, kiên cường năm xưa.
Phạm Hoàng

Wednesday, July 13, 2016

Toàn văn thông cáo phán quyết của PCA vụ kiện Philippines-Trung Quốc

 Xin giới thiệu toàn văn thông cáo phán quyết lịch sử của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) vụ kiện Philippines-Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông.

Tòa Trọng tài Thường trực (PCA)
Tòa Trọng tài Thường trực (PCA)
Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc liên quan đến Biển Đông ngày 12-7 đã có phán quyết.
Đây được xem là phán quyết mang tính lịch sử, trong đó, lần đầu tiên một cơ quan tài phán quốc tế có tư cách pháp nhân bác bỏ quyền lịch sử của Trung Quốc trong phạm vi đường lưỡi bò, thực chất là bác bỏ đường lưỡi bò, xác định nó không có cơ sở pháp lý và cũng bác bỏ luôn cả quyền lịch sử đối với tài nguyên bên trong đường lưỡi bò…
Đây cũng là lần đầu tiên Toà đã ra bộ quy chế về pháp lý đầy đủ về các cấu trúc trên biển, lần đầu tiên nhân loại có một bộ định nghĩa đầy đủ thế nào là đảo, là đá, bãi nửa nổi nửa chìm… và quy chế pháp lý đối với từng cấu trúc như vậy, có thể xem là một sự tiến bộ của nhân loại về mặt pháp lý, khoa học.
Toà cũng khẳng định những gây hại đối với môi trường, làm gia tăng tranh chấp và những tính phi pháp trong nhiều hành động của Trung Quốc, không chỉ đối với Philippines mà còn đối với các hoạt động khác nói chung.
Toàn văn phán quyết của tòa trọng tài là văn bản công phu dài 500 trang. Dưới đây là toàn văn thông cáo của phán quyết này do Tòa Trọng tài Thường trực ban hành.
Toà Trọng tài Biển Đông
(Cộng hoà Philippines v Cộng hoà nhân dân Trung Hoa)
La Hay, 12 tháng 7 năm 2016
Toà Trọng tài ban hành phán quyết
Phán quyết được Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (sau đây gọi là “Công ước”) trong vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi là ‘Philippines’ và ‘Trung Quốc’) hoàn toàn nhất trí thông qua và ban hành.
Vụ kiện trọng tài này liên quan đến vai trò của các quyền lịch sử và nguồn xác định quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông, quy chế của một số cấu trúc cụ thể và các vùng biển của các cấu trúc này, và tính hợp pháp của các hành vi của Trung Quốc mà Philippines cho là vi phạm Công ước. Phù hợp các giới hạn của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước, Toà Trọng tài đã nhấn mạnh Toà không phán quyết các vấn đề nào liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa các bên của vụ kiện.
Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố ‘nước này không chấp nhận cũng như không tham gia vào tiến trình trọng tài do Philippines đơn phương khởi xướng’. Tuy nhiên, Phụ lục VII quy định rằng “việc vắng mặt của một bên hoặc việc một bên không thực hiện việc biện hộ không tạo nên bất kỳ rào cản nào cho tiến trình tố tụng”. Phụ lục VII cũng quy định rằng trong trường hợp một bên không tham gia vào tiến trình tố tụng, Toà Trọng tài “phải chắc chắn rằng Toà có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp cũng như nội dung kiện phải được chứng minh đầy đủ cả về mặt pháp lý và thực tế”. Theo đó, trong suốt quá trình tố tụng, Toà Trọng tài đã thực hiện các biện pháp cần thiết để kiểm tra tính xác thực của các đệ trình do Philippines đưa ra, bao gồm cả việc yêu cầu Philippines cung cấp thêm các lập luận, đặt ra các câu hỏi cho Philippines trước và trong hai phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên gia độc lập có nhiệm vụ báo cáo Toà về các vấn đề kỹ thuật và thu thập các bằng chứng về mặt lịch sử liên quan đến các cấu trúc tại Biển Đông và chuyển các bằng chứng này để bên bình luận.
Trung Quốc, thông qua Bản Tuyên bố lập trường ban hành tháng 12 năm 2014 cũng như các các tuyên bố chính thức khác, cũng tuyên bố rõ ràng rằng theo quan điểm của nước này, Toà Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ kiện. Điều 288 của Công ước quy định: ‘Trong trường hợp xảy ra tranh chấp về việc liệu một toà hay một cơ quan trọng tài có hay không có thẩm quyền, vấn đề này sẽ do chính toà hay cơ quan trọng tài đó quyết định’. Theo đó, Toà Trọng tài đã tổ chức một phiên tranh tụng về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc vào tháng 7 năm 2015 và ban hành một Phán quyết về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc vào ngày 29 tháng 10 năm 2015, quyết định về một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền và sẽ để lại một số vấn đề đê tiếp tục xem xét. Toà Trọng tài, sau đó, tiếp tục triệu tập và tổ chức một phiên tranh tụng về các vấn đề nội dung của vụ kiện từ ngày 24 đến 30 tháng 11 năm 2015.
Phán quyết được ban hành hôm nay giải quyết các vấn đề về thẩm quyền mà Toà chưa quyết định trong Phán quyết về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc cũng như giải quyết các vấn đề về nội dung thực chất đối với các yêu cầu mà Philippines nằm trong thẩm quyền của Toà. Theo quy định tại Điều 296 của Công ước và Điều 11 của Phụ lục VII Phán quyết này có tính ràng buộc pháp lý và có tính chung thẩm.
Quyền lịch sử và Đường 9 đoạn:
Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Toà kết luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.
Quy chế của các cấu trúc:
Tiếp theo, Toà Trọng tài xem xét đến quyền hưởng các vùng biển và quy chế của các cấu trúc. Trước tiên, Toà tiến hành đánh giá liệu một số bãi do Trung Quốc yêu sách có nổi khi thuỷ triều lên đỉnh hay không. Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy. Toà nhận thấy rằng các bãi này đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Toà cũng nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc. Sau đó, Toà tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không. Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc. Toà cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. Toà kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác. Theo đó, Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Toà cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất. Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Toà nhận thấy Tòa có thể không cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có.
Tính hợp pháp của các hoạt động của Trung Quốc: Tiếp theo, Toà xem xét tới tính hợp pháp của các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhận thấy rằng các vùng nhất định nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, Toà cho rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này bằng việc (a) can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Philippines, (b) xây dựng đảo nhân tạo và (c) không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở khu vực này. Toà cũng khẳng định rằng ngư dân từ Philippines (cũng như ngư dân từ Trung Quốc) đã có quyền đánh cá truyền thống ở Bãi Scarborough và rằng Trung Quốc đã ngăn chặn các quyền này bằng cách hạn chế việc tiếp cận khu vực này. Toà cũng khẳng định rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc gây ra một rủi ro va chạm nghiêm trọng một cách bất hợp pháp khi họ đã trực tiếp cản trở các tàu của Philippines.
Gây hại cho môi trường biển: Toà xem xét ảnh hưởng với môi trường biển của các hoạt động bồi đắp và xây dựng nhân tạo trên 7 cấu trúc của Quần đảo Trường Sa gần đây của Trung Quốc, và nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt. Toà cũng cho rằng nhà chức trách Trung Quốc đã nhận thức được việc ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt các loài rùa biển, san hô và trai khổng lồ quý hiếm trên diện rộng ở Biển Đông (bằng các biện pháp gây ra tổn hại nghiêm trọng với môi trường rặng san hô) và đã không thực hiện các nghĩa vụ của nước này trong việc ngăn chặn và chấm dứt các hoạt động này.
Làm trầm trọng thêm tranh chấp: Cuối cùng, Toà xem xét liệu các hoạt động của Trung Quốc kể từ khi Toà bắt đầu xem xét vụ việc có làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các bên hay không. Toà nhận thấy rằng Toà thiếu thẩm quyền để xem xét tác động của vụ đối đầu giữa tàu hải quân của Philippines và tàu hải quân và chấp pháp của Trung Quốc ở Bãi cạn Second Thomas, cho rằng tranh chấp này liên quan đến các hoạt động quân sự và do vậy, nằm ngoài cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Tuy nhiên, Toà nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các Bên.
Tóm tắt mở rộng của phán quyết của Toà sẽ được trình bày dưới đây.
Toà được thành lập vào ngày 21 tháng 6 năm 2013, phù hợp với chu trình được quy định trong Phụ lục VII Công ước Luật biển, để đưa ra phán quyết về tranh chấp được đệ trình bởi Philippines. Toà bao gồm Thẩm phán người Ghana Thomas A. Mensah, Thẩm phán người Pháp Jean-Pierre Cot, Thẩm phán người Phần Lan Stanislaw Pawlak, Giáo sư người Hà Lan Alfred H.A. Soons và Thẩm phán người Đức Rüdiger Wolfrum. Thẩm phán Thomas A. Mensah là Chủ tịch Tòa Trọng tài. Toà Trọng tài thường trực là cơ quan đăng ký trong quá trình xét xử.
Thông tin thêm về vụ việc có thể được tìm thấy ở trang www.pcacases.com/web/view/7, bao gồm Phán quyết về Thẩm quyền, các Quy tắc về thủ tục, các Thông cáo báo chí trước đây, biên bản phiên toà và ảnh. Trình tự thủ tục, đệ trình bởi Philippines. và các báo của của chuyên gia của Toà sẽ được công bố trong một thời gian thích hợp, cũng như bản dịch không chính thức bằng tiếng Trung của Phán quyết của Toà.

TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG TÀI VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ VỀ NỘI DUNG CÁC ĐỆ TRÌNH CỦA PHILIPPINES
1. Thông tin cơ bản về Vụ kiện Trọng tài
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc liên quan đến đơn kiện của Philippines đề nghị phán quyết về bốn vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ nhất, Philippines muốn Tòa phán quyết về nguồn luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trên Biển Đông và hiệu lực của Công ước Liên hợp Quốc về Luật Biển (Công ước) đối với yêu sách về quyền lịch sử bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” của Trung Quốc. Thứ hai, Philippines muốn Tòa phán quyết về liệu một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines cùng yêu sách được xác định chính xác là đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi chìm theo Công ước. Quy chế pháp lý của các cấu trúc này theo Công ước quyết định vùng biển mà những cấu trúc đó có thể có được. Thứ ba, Philippines muốn Tòa phán quyết liệu một số hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có vi phạm Công ước không khi can thiệp vào việc Philippines thực thi các quyền chủ quyền và quyền tự do phù hợp với Công ước, cũng như Trung Quốc đã làm tổn hại đến môi trường biển thông qua các hoạt động đánh cá và xây dựng. Cuối cùng, Philippines muốn Tòa phán quyết về một số hoạt động do Trung Quốc tiến hành, cụ thể là việc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa kể từ khi vụ kiện bắt đầu đến nay đã làm mở rộng và làm phức tạp thêm tranh chấp.
Chính phủ Trung Quốc theo quan điểm không chấp nhận và không tham gia vào trình tự tố tụng của vụ kiện. Trung Quốc đã nhắc lại quan điểm trong các công hàm ngoại giao, trong “Tài liệu lập trường của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về vấn đề thẩm quyền trong Vụ kiện Trọng tài Biển Đông do Cộng hòa Philippines khởi xướng” đề ngày 7/12/2014 (“Tài liệu lập trường của Trung Quốc”), trong thư của Đại sứ Trung Quốc tại Vương quốc Hà Lan gửi các thành viên của Tòa Trọng tài và trong rất nhiều tuyên bố công khai. Chính phủ Trung Quốc đã bày tỏ rõ quan điểm rằng các tuyên bố và tài liệu đó “không thể được giải thích là Trung Quốc tham gia vào quá trình tố tụng của vụ kiện dưới bất kỳ hình thức nào”.
Trong Công ước có hai điều khoản xư lý tình huống một bên phản đối thẩm quyền của Tòa Trọng tài và từ chối tham gia vào trình tự tố tụng:
(a) Điều 288 của Công ước quy định: “Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án hoặc trọng tài có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định.”
(b) Điều 9 Phụ lục VII, Công ước quy định:
“Khi một trong các bên trong vụ tranh chấp không ra Tòa trọng tài hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Tòa Trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Tòa có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý.”
Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa Trọng tài đã tiến hành một số biện pháp nhằm hoàn thành nghĩa vụ về việc phải tự mình bảo đảm rằng Tòa có thẩm quyền và rằng nội dung kiện của Philippines là “có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý”. Về vấn đề thẩm quyền, Tòa đã quyết định xem các trao đổi không chính thức của Trung Quốc tương đương với ý kiến phản đối thẩm quyền, Tòa đã tổ chức Tranh tụng riêng về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý diễn ra từ ngày 7-13/7/2015, đặt câu hỏi cho Philippines cả trước và trong phiên tòa về thẩm quyền, bao gồm các vấn đề có thể chưa được nêu trong các trao đổi không chính thức của Trung Quốc và Tòa đã ra Phán quyết về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý vào ngày 29/10/2015 (“Phán quyết về thẩm quyền”), theo đó quyết định một số đệ trình mà Tòa có thẩm quyền và các đệ trình khác được hoãn lại để xem xét chung với các vấn đề về nội dung thực chất. Về vấn đề nội dung, Tòa đã tìm cách kiểm tra độ xác thực của các đệ trình của Philippines bằng cách yêu cầu nước này nộp thêm văn ban bổ sung, Tòa đã tổ chức phiên tranh tụng về riêng nội dung thực chất diễn ra từ ngày 24-30/11/2015, đặt câu hỏi cho Philippines về những nôi dung khởi kiện cả trước và trong phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên gia độc lập đê báo cáo cho Tòa về các vấn đề kỹ thuật, và Toà đã thu thập các ghi chép lịch sử, dữ liệu điều tra thủy văn về Biển Đông trong kho lưu trữ của Văn phòng Thủy văn Anh Quốc, Thư viện Quốc gia Pháp, và Trung tâm lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp cũng như cung cấp các tài liệu này, cùng các tài liệu liên quan đến từ các nguồn mở cho các bên trong vụ kiện để các bên đưa ra bình luận.
2. Lập trường của các bên
Philippines đã đưa ra 15 đệ trình trong vụ kiện, yêu cầu Tòa xác định:
1) Phạm vi các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng trên Biển Đông, cũng giống như của Philippines, không thể vượt ra ngoài những gì được Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (“UNCLOS” hay “Công ước”) cho phép;
2) Các yêu sách của Trung Quốc về các quyền chủ quyền và quyền tài phán, và đối với “các quyền lịch sử”, đối với các vùng biển trên Biển Đông nằm bên trong gọi là “đường chín đoạn” là trái với Công ước và không có hiệu lực pháp lý trong chừng mực mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất của các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng theo UNCLOS;
3) Bãi Scarborough không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng;
4) Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và đá Xu-bi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm và chúng không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, đồng thời không phải là các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm đóng hay thông qua cách khác;
5) Bãi Vành Khăn (Mischief Reef) và bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines;
6) Đá Ga-ven (Gaven Reef) và đá Ken-nan (McKennan Reef) (bao gồm cả đá Huy-gơ (Hughes Reef)) là các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, nhưng ngấn nước thấp nhất của chúng có thể được dùng để lần lượt xác định đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của đảo Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sin Cowe);
7) Bãi Gạc Ma (Johnson Reef), đá Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa;
8) Trung Quốc đã can thiệp một cách bất hợp pháp tới việc Philippines hưởng và thực thi các quyền chủ quyền của mình liên quan đến các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines;
9) Trung Quốc đã hành động một cách bất hợp pháp khi không ngăn cản công dân và tàu thuyền của mình khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines;
10) Trung Quốc đã ngăn cản một cách bất hợp pháp việc ngư dân Philippines theo đuổi sinh kế bằng việc can thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi Scarborough;
11) Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển ở bãi Scarborough và bãi Cỏ Mây;
12) Việc Trung Quốc chiếm đóng và tiến hành các hoạt động xây dựng tại bãi Vành Khăn:
(a) vi phạm các điều khoản của Công ước liên quan đến các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình;
(b) vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển theo Công ước; và
(c) cấu thành những hành vi bất hợp pháp trong việc cố tình chiếm đoạt theo cách vi phạm Công ước;
13) Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ theo Công ước trong việc sử dụng các tàu chấp pháp một cách nguy hiểm, gây ra nguy cơ nghiêm trọng về va chạm với tàu Philippines hoạt động xung quanh bãi Scarborough;
14) Từ khi vụ kiện trọng tài này được bắt đầu vào tháng 1/2013, Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm và mở rộng các tranh chấp thông qua các việc sau:
(a) can thiệp vào các quyền hàng hải của Philippines trong vùng nước tại và tiếp giáp bãi Cỏ Mây;
(b) ngăn cản việc luân chuyển và tiếp tế cho lực lượng của Philippines đồn trú tại bãi Cỏ Mây; và
(c) đe dọa đến sức khỏe và đời sống của lực lượng của Philippines đồn trú tại bãi Cỏ Mây;
15) Trung Quốc phải chấm dứt có thêm các yêu sách và hành động phi pháp.
Liên quan đến thẩm quyền của Tòa, Philippines đã đề nghị Tòa tuyên bố rằng các yêu sách của Philippines là “hoàn toàn nằm trong thẩm quyền và khả năng thụ lý của Tòa”.
Trung Quốc không chấp nhận và không tham gia vào vụ kiện này, nhưng tuyên bố lập trường của mình là “Tòa trọng tài không có thẩm quyền đối với vụ kiện này”. Trong Tài liệu lập trường của mình, Trung Quốc đã đưa ra các lập luận sau:
- Bản chất của vụ kiện là chủ quyền lãnh thổ đối với một số cấu trúc biển ở Biển Đông, vấn đề này nằm ngoài phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước;
- Trung Quốc và Philippines đã thống nhất, thông qua các thỏa thuận song phương và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, giải quyết các tranh chấp liên quan thông qua thương lượng. Việc Philippines đơn phương khơi kiện tòa trọng tài này là vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật pháp quốc tế;
- Ngay cả khi giả định rằng nội dung cua vụ kiện liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các nội dung này là một phần không tách rời của quá trình phân định biển giữa hai quốc gia, như vậy sẽ rơi vào trường hợp tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc phù hợp với Công ước, tong đó loại trừ các tranh chấp về phân định biển khỏi cơ chế trọng tài bắt buộc hay các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
Mặc dù Trung Quốc không đưa ra các tuyên bố chính thức tương ứng với phần lớn các đệ trình của Philippines, trong quá trình tố tụng Tòa đã cố gắng xác định lập trường của Trung Quốc trên cơ sở các tuyên bố công khai và thư tín ngoại giao.
3. Phán quyết của Tòa về Phạm vi thẩm quyền
Tòa đã xem xét vấn đề phạm vi thẩm quyền xét xử các yêu sách của Philippines ở cả Phán quyết về Thẩm quyền, ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm quyền có thể được xác định như một vấn đề ban đầu, và trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm quyền đan xen với các nội dung thực chất của các yêu sách của Philippines. Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa cũng lồng ghép và tái khẳng định các quyết định về thẩm quyền được đưa ra trong Phán quyết về Thẩm quyền.
Để có bức tranh hoàn chỉnh, các quyết định của Tòa về thẩm quyền trong cả hai phán quyết được tóm tắt chung ở đây.
a. Các vấn đề ban đầu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét một số những vấn đề ban đầu liên quan đến thẩm quyền của Tòa. Tòa nhận thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều là thành viên Công ước và Công ước không cho phép một Quốc gia tự loại trừ mình khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Công ước. Tòa cho rằng việc Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện không tước bỏ thẩm quyền của Tòa và Tòa đã được thành lập đúng với các điều khoản của Phụ lục VII của Công ước, trong đó bao gồm một thủ tục thành lập tòa ngay cả trong trường hợp một bên vắng mặt. Cuối cùng, Tòa đã không công nhận lập luận được nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc và cho rằng chi riêng việc đơn phương khởi kiện không thể được coi là sự lạm dụng đối với Công ước.
b. Sự tồn tại của một Tranh chấp Liên quan đến Giải thích và Áp dụng Công ước
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét liệu tranh chấp của các Bên có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước hay không, đây là một điều kiện để sử dụng các cơ chế của Công ước.
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực ra là về chủ quyền lãnh thổ và do đó không phải là một vấn đề liên quan đến Công ước. Tòa chấp nhận rằng tồn tại một tranh chấp giữa các Bên liên quan đến chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông, nhưng Tòa cho rằng các vấn đề được Philippines đệ trình để giải quyết bằng trọng tài lại không liên quan đến chủ quyền. Tòa cho rằng không cần thiết phải ngầm quyết định về chủ quyền để có thể xem xét các Đệ trình của Philippines và rằng việc xem xét đó sẽ không hỗ trợ cho các yêu sách chủ quyền của bất kỳ Bên nào đối với các đảo ở Biển Đông.
Tòa cũng bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực tế là về phân định ranh giới biển và do đó bị loại khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp bởi Điều 298 của Công ước và bởi một tuyên bố của Trung Quốc vào ngày 25/8/2006 theo Điều khoản này. Tòa nhận thấy rằng một tranh chấp về việc liệu một Quốc gia có quyền đối với một vùng biển hay không là một vấn đề hoàn toàn khác biệt so với vấn đề phân định các vùng biển ở một khu vực mà các vùng biển này chồng lấn.Tòa nhận thấy rằng các quyền được hưởng vùng biển, cùng với nhiều vấn đề khác, thường được xem xét trong việc phân định ranh giới, nhưng cũng có thể phát sinh trong những bối cảnh khác.Tòa quyết định là từ đó không thể kết luận rằng một tranh chấp đối với từng vấn đề trên có thể coi là tranh chấp về phân định ranh giới.
Cuối cùng, Tòa quyết định rằng các Đệ trình của Philippines đều phản ánh một tranh chấp liên quan đến Công ước. Với quyết định đó, Tòa đã nhấn mạnh rằng (a) tranh chấp liên quan đến sự tương tác giữa Công ước và các quyền khác (bao gồm bất kỳ “quyền lịch sử” nào của Trung Quốc) là một tranh chấp liên quan đến Công ước và (b) do Trung Quốc không nêu rõ quan điểm của mình, sự tồn tại của một tranh chấp có thể được hàm ý từ hành vi của một Quốc gia hoặc từ sự im lặng, và đây là một vấn đề cần phải được xem xét một cách khách quan.
c. Sự tham gia của Bên thứ ba không thể thiếu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét việc các Quốc gia khác cũng có yêu sách đối với các đảo ở Biển Đông không tham gia vào vụ kiện trọng tài có cản trở thẩm quyền của Tòa hay không. Tòa thấy rằng quyền của các Quốc gia khác sẽ không cấu thành “nội dung chính của phán quyết” – tiêu chuẩn để bên thứ ba có thể được coi là không thể thiếu. Tòa cũng lưu ý thêm rằng vào tháng 12/2014, Việt Nam đã đệ trình một tuyên bố lên Tòa, trong đó Việt Nam tuyên bố rằng “không nghi ngờ gì Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện này”. Tòa cũng lưu ý rằng Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã dự các phiên tòa về thẩm quyền với tư cách quan sát viên, và không Quốc gia nào nêu lên lập luận rằng sự tham gia của mình là không thể thiếu.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa lưu ý rằng Tòa đã nhận được công hàm của Malaysia ngày 23/6/2016, trong đó nêu lại những yêu sách của Malaysia ở Biển Đông. Tòa đã so sánh những phán quyết về nội dung thực chất của Đệ trình của Philippines với các quyền mà Malaysia yêu sách và tái khẳng định quyết định của mình rằng Malaysia không phải là một bên không thể thiếu và rằng lợi ích của Malaysia ở Biển Đông không ngăn cản việc Tòa xem xét các Đệ trình của Philippines.
d. Điều kiện tiên quyết đối với thẩm quyền
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét khả năng áp dụng Điều 281 và 282 của Công ước, là những điều khoản có thể ngăn một Quốc gia sử dụng các cơ chế theo Công ước nếu những quốc gia đó đã đồng ý về việc sư dụng biện pháp khác để giải quyết tranh chấp.
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002 ngăn Philippines khởi kiện trọng tài. Tòa cho rằng Tuyên bố trên là một thỏa thuận chính trị và không ràng buộc về pháp lý, không định ra một cơ chế giải quyết tranh chấp một cách ràng buộc, không loại trừ các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, và do đó không hạn chế thẩm quyền của Tòa theo Điều 281 hay 282. Tòa cũng đã xem xét Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, Công ước về Đa dạng sinh học và một loạt các tuyên bố chung của Philippines và Trung Quốc về việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán và kết luận rằng những văn kiện này đều không cấu thành một thỏa thuận có tác dụng ngăn Philippines khởi kiện ra trọng tài.
Tòa cũng cho rằng các Bên đã trao đổi quan điểm của mình liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp, theo như yêu cầu của Điều 283 của Công ước, trước khi Philippines khởi kiện trọng tài. Tòa kết luận rằng điều kiện này đã được đáp ứng theo hồ sơ về trao đổi ngoại giao giữa Philippines và Trung Quốc, trong đó Philippines đã thể hiện quan điểm muốn lựa chọn đàm phán đa phương, có sự tham gia của cả những Quốc gia khác xung quanh Biển Đông, trong khi Trung Quốc một mực quyết định rằng chỉ có các cuộc đàm phán song phương mới được xem xét.
e. Ngoại lệ và giới hạn của thẩm quyền
Trong phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu Đệ trình của Philippines liên quan đến các quyền lịch sử của Trung Quốc và ‘đường chín đoạn’ có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền các tranh chấp liên quan đến ‘danh nghĩa lịch sử’ theo Điều 298 của Công ước hay không. Tòa đã rà soát nghĩa của cụm từ ‘danh nghĩa lịch sử’ trong luật biển và quyết định là thuật ngữ này dẫn chiếu đến những yêu sách về chủ quyền lịch sử đối với các vịnh và vùng biển gần bờ. Sau khi xem xét các yêu sách và hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, Tòa kết luận rằng Trung Quốc đã yêu sách quyền lịch sử đối với các tài nguyên trong ‘đường chín đoạn’, nhưng không yêu sách danh nghĩa lịch sử đối với các vùng biển ở Biển Đông. Do đó, Tòa kết luận rằng Tòa có thẩm quyền để xem xét các nội dung kiện của Philippines liên quan đến quyền lịch sử và về vấn đề ‘đường chín đoạn’ giữa Philippines và Trung Quốc.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu các Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển. Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã kết luận rằng các Đệ trình của Philippines không liên quan đến việc phân định ranh giới, nhưng cũng lưu ý rằng một vài điểm trong Đệ trình của Philippines phụ thuộc vào một số khu vực nhất định có cấu thành một phần vùng đặc quyền kinh tế của Philippines không. Tòa quyết định rằng Tòa chỉ có thể xem xét những đệ trình đó nếu Trung Quốc không có khả năng được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và đã hoãn đưa ra quyết định cuối cùng về thẩm quyền. Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét các bằng chứng về các bãi và đảo mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông và kết luận rằng không một đảo, bãi nào có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ở quần đảo Trường Sa, Tòa quyết định là các đệ trình của Philippines không phụ thuộc vào việc phân định trước ranh giới.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến hoạt động của cơ quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế hay không. Tòa nhắc lại rằng ngoại lệ ở Điều 298 chỉ có thể áp dụng nếu Đệ trình của Philippines liên quan đến hoạt động của cơ quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên, do Đệ trình của Philippines liên quan đến các sự kiện diễn ra trong chính vùng đặc quyền kinh tế của Philippines hoặc ở vùng lãnh hải, Tòa đã kết luận rằng Điều 298 không gây cản trở đối với thẩm quyền của mình.
Cuối cùng, trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu các đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự hay không. Tòa quyết định là sự đụng độ giữa lực lượng lính thủy đánh bộ của Philippines ở Bãi Cỏ Mây và hải quân, lực lượng thực thi pháp luật của Trung Quốc đã cấu thành các hoạt động quân sự và kết luận rằng Tòa không có thẩm quyền đối với Đệ trình số 14(a)-(c). Tòa cũng xem xét liệu các hoạt động cải tạo và xây dựng đảo nhân tạo ở bảy cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa có cấu thành hoạt động quân sự hay không, nhưng lưu ý rằng Trung Quốc đã liên tục nhấn mạnh bản chất phi quân sự của những hoạt động của mình và đã tuyên bố ở cấp cao nhất rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa sự hiện diện của mình trên Trường Sa. Tòa đã quyết định rằng Tòa sẽ không coi các hoạt động trên có tính quân sự khi mà bản thân Trung Quốc đã liên tục khẳng định điều ngược lại. Do đó, Tòa kết luận rằng Điều 298 không cản trở thẩm quyền của Tòa.
4. Phán quyết của Tòa liên quan đến Nội dung khởi kiện thực chất của Philippines
a. ‘Đường chín đoạn’ và Yêu sách Quyền lịch sử của Trung Quốc trên các vùng biển thuộc Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét đến giá trị của ‘đường chín đoạn’ của Trung Quốc và liệu Trung Quốc có quyền lịch sử đối với các tài nguyên ở Biển Đông bên ngoài giới hạn của các vùng biển mà nước này được hưởng theo Công ước hay không.
Tòa đã xem xét lịch sử của Công ước và những điều khoản của nó liên quan đến các vùng biển và kết luận rằng mục đích của Công ước là phân bổ một cách toàn diện các quyền của các Quốc gia đối với các vùng biển. Tòa nhận thấy rằng câu hỏi về những quyền tồn tại từ trước đối với tài nguyên (đặc biệt là đối với tài nguyên cá) đã được xem xét cẩn thận trong các cuộc đàm phán về sự hình thành vùng đặc quyền kinh tế và rằng một số Quốc gia đã có mong muốn bảo tồn các quyền đánh cá lịch sử ở vùng biên mới này. Tuy nhiên, quan điểm này đã bị bác bỏ và văn bản cuối cùng của Công ước chỉ cho các Quốc gia khác một quyền hạn chế trong việc tiếp cận về đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế (trong trường hợp Quốc gia ven biển không thể khai thác hết lượng cá cho phép) mà không cho các quốc gia khác quyền gì đối với dầu khí hay tài nguyên khoáng sản. Tòa nhận thấy rằng yêu sách về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên là không phù hợp với sự phân bổ chi tiết về quyền và vùng biển của Công ước và kết luận rằng, nếu Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông, những quyền đó đã bị xóa bỏ bởi việc Công ước có hiệu lực ở chừng mực mà chúng không phù hợp với hệ thống các vùng biển của Công ước.
Tòa cũng xem xét hồ sơ lịch sử để xác định liệu Trung Quốc có thật là có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không. Tòa lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng như của các nước khác, trong lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển Đông, mặc dù Tòa nhấn mạnh rằng Tòa không có thẩm quyền để xác định chủ quyền đối với những đảo đó. Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công ước, các vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một phần của vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ Quốc gia nào đều có thể qua lại và đánh cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh cá trong lịch sử ở vùng biển của Biển Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác khai thác những tài nguyên của mình.
Do đó, Tòa kết luận rằng, giữa Philippines và Trung Quốc, không có căn cứ pháp lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên, bên ngoài những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng biển nằm bên trong ‘đường chín đoạn’.
b. Quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông và các quyền đối với vùng biển mà Trung Quốc có thể đòi hỏi theo Công ước.
Trước hết, Tòa Trọng tài thực hiện đánh giá kỹ thuật về việc liệu một số bãi san hô mà Trung Quốc đòi hỏi có nổi trên mặt nước khi thủy triều lên hay không. Theo Điều 13 và 121 của Công ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều lên cao sẽ ít nhất được hưởng lãnh hải 12 hải lý, trong khi những cấu trúc bị chìm khi thủy triều lên sẽ không có quyền có các vùng biển. Tòa Trọng tài ghi nhận rằng nhiều rặng san hô tại Biển Đông đã bị thay đổi nặng nề do việc cải tạo và xây dựng đảo gần đây và nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của nó. Tòa Trọng tài đã chỉ định một chuyên gia thủy văn học để hỗ trợ Tòa trong việc đánh giá các bằng chứng kỹ thuật của Philippines và dựa chủ yếu vào các tài liệu lưu trữ và các đánh giá thủy văn trước đây để đánh giá các cấu trúc này. Tòa Trọng tài nhất trí với Philippines rằng bãi Scarborough, Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập là các cấu trúc nổi và Xu Bi, Huy-gơ, Vành Khăn và Cỏ Mây là cấu trúc chìm trong điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài không nhất trí với Philippines về quy chế của Ga Ven (phía Bắc) và Ken Nan và kết luận rằng cả hai đều là cấu trúc nổi.
Tòa Trọng tài tiếp theo đã xem xét liệu có cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra các vùng biển ngoài 12 hải lý hay không. Theo Điều 121 của Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa, nhưng “các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Tòa Trọng tài thấy rằng quy định này liên hệ chặt chẽ với việc mở rộng quyền tài phán của Quốc gia ven biển với việc hình thành vùng đặc quyền kinh tế và nhằm để ngăn ngừa việc các cấu trúc không lớn có thể tạo ra các vùng biển lớn, mà điều này xâm phạm vào vùng biển của các lãnh thổ có người ở hoặc vùng biển quốc tế và vùng đáy biển vốn là di sản chung của nhân loại. Tòa Trọng tài giải thích Điều 121 và kết luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào (a) năng lực khách quan của cấu trúc; (b) trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì hoặc (c) một cộng đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác.
Tòa Trọng tài thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều quốc gia ven biển kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực tại chỗ. Tòa Trọng tài thấy rằng sự hiện diện thời nay phụ thuộc vào các nguồn lực và hỗ trợ bên ngoài và thấy rằng nhiều cấu trúc đã bị biến đổi để nâng cao khả năng sinh sống của con người, kể cả thông qua cải tạo đảo và xây dựng các cơ sở hạ tầng như các nhà máy xử lý nước mặn. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc. Qua đánh giá hồ sơ lịch sử, Tòa Trọng tài thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ Trung Quốc và các nước khác sử dụng, và một số công ty khai thác phân chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào những năm 1920 và 1930. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc sử dụng tạm thời các cấu trúc của ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất cả các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác. Theo đó, Tòa Trọng tài kết luận rằng tất các cấu trúc nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây) đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất.
c. Các hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét tính hợp pháp theo Công ước đối với nhiều hành động của Trung Quốc tại Biển Đông.
Sau khi kết luận Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là cấu trúc chìm, tạo thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines và không chồng lấn với bất kỳ vùng biển nào Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận rằng Công ước đã rõ ràng trong việc trao quyền chủ quyền cho Philippines đối với các khu vực biển trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tòa Trọng tài xác định, trên thực tế, Trung Quốc đã (a) can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tại Bãi Cỏ Rong; (b) chủ ý cấm các tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và (c) bảo vệ cho và không ngăn ngừa các ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây, và (d) xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Philippines. Do vậy Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này.
Tiếp theo Tòa Trọng tài xem xét quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough và kết luận rằng ngư dân từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá tại bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này. Do bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này có quyền có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước. Dù Tòa Trọng tài nhấn mạnh rằng Tòa không quyết định về vấn đề chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, Tòa xác định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn Scarborough sau tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng sẽ có kết luận tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc nếu Philippines có hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi Scarborough.
Tòa Trọng tài cũng xem xét tác động của các hành vi của Trung Quốc đối với môi trường biển. Để làm việc này, Tòa Trọng tài đã có sự trợ giúp của 3 chuyên gia độc lập về sinh học của rặng san hô được chỉ định để đánh giá các chứng cứ khoa học có được và các báo cáo của chuyên gia của Philippines. Tòa Trọng tài xác định rằng việc Trung Quốc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo gần đây tại bảy cấu trúc tại Trường Sa đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hô và Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo Điều 192 và 194 của Công ước trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường biển đối với các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sinh sống của các loài động vật bị đe dọa, sắp cạn kiệt. Đồng thời Tòa Trọng tài cũng xác định rằng ngư dân Trung Quốc đã thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa như rùa biển, san hô và trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện pháp gây hủy hoại nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hộ. Tòa Trọng tài xác định rằng chính quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không thực hiện nghĩa vụ cẩn trọng theo Công ước để ngăn chặn.
Cuối cùng, Tòa Trọng Tài đã xem xét tính hợp pháp của các hành vi của tàu chấp pháp Trung Quốc tại bãi Scarborough trong hai tình huống vào tháng 4 và 5 năm 2012 khi các tàu Trung Quốc đã tìm cách cản trở tàu Philippines tiếp cận hoặc tiến vào bãi Scarborough. Để làm việc này, Tòa Trọng tài đã được một chuyên gia độc lập về an toàn hàng hải được chỉ định để hỗ trợ trong việc xem xét các báo cáo bằng văn bản do các sĩ quan tàu Philippines cung cấp và các chứng cứ chuyên gia về an toàn hàng hải do Philippines cung cấp. Tòa Trọng tài xác định rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã liên tiếp tiếp cận tàu Philippines với tốc độ cao và cố gắng cắt đầu các tàu này ở khoảng cách gần, tạo ra nguy cơ đâm va cao và nguy hiểm cho tàu và người của Philippines. Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước về Quy định Quốc tế để Ngăn ngừa Va chạm trên Biển 1972 và Điều 94 của Công ước liên quan đến an toàn hàng hải.
d. Làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các Bên
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét liệu các hoạt động cải tạo đất quy mô lớn gần đây và xây dựng các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại 7 cấu trúc tại Trường Sa từ khi bắt đầu thủ tục trọng tài có làm gia tăng tranh chấp giữa các Bên. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng các bên tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp có nghĩa vụ kiềm chế việc làm trầm trọng thêm hoặc mở rộng một tranh chấp hoặc các tranh chấp về các vấn đề đang được thụ lý. Tòa Trọng tài thấy rằng Trung Quốc đã (a) xây dựng một đảo nhân tạo lớn tại Vành Khăn, một cấu trúc lúc chìm lúc nổi nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (b) gây ra hủy hoại lâu dài, không thể phục hồi đối với hệ sinh thái rặng san hộ và (c) phá hủy lâu dài các chứng cứ về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc này. Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ về kiềm chế làm trầm trọng thêm và kéo dài tranh chấp giữa các Bên trong khi chờ quá trình xét xử.
e. Hành vi tương lai của các Bên
Cuối cùng, Tòa Trọng tài xem xét đề nghị của Philippines về việc đưa ra tuyên bố rằng, từ nay về sau, Trung Quốc cần tuân thủ các quyền và quyền tự do của Philippines và tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Công ước. Về vấn đề này, Tòa Trọng tài thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều đã nhiều lần thừa nhận Công ước và các nghĩa vụ chung về thiện chí trong xác định và điều chỉnh các hành vi của mình. Tòa Trọng tài xét rằng cốt lõi của tranh chấp trong vụ kiện này không nằm ở ý định của Trung Quốc hay Philippines trong việc xâm phạm quyền lợi pháp lý của bên kia, mà chính là do có sự hiểu khác nhau cơ bản về các quyền của nước mình theo Công ước đối với các vùng nước thuộc Biển Đông. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong luật pháp quốc tế có nguyên tắc cơ bản là “không thiện chí” không thể tự suy diễn và thấy rằng Điều 11 của Phụ lục VII đã quy định “phán quyết…sẽ được các bên trong tranh chấp tuân thủ”. Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy không cần thiết phải đưa ra tuyên bố nào nữa.
TS

Ký ức dòng sông Thạch Hãn

 O du kích Phan Thị Lựu ngồi trong căn nhà cũ kỹ có mái tôn khua loạt soạt theo từng luồng gió từ bờ sông Thạch Hãn. Luồng gió man mác gợi nhớ về hình ảnh những người chiến sĩ tham gia chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Các anh còn rất trẻ, hồn nhiên kể chuyện được mẹ làm thịt lợn liên hoan trước lúc chia tay bạn bè để vào Nam chiến đấu.
p7ix_4a
Chị Lựu (thứ 2 từ trái sang) và đồng đội trong một dịp về thăm Thành cổ Quảng Trị. Ảnh: Lê Văn Chương
Trước căn nhà của o du kích Phan Thị Lựu có một con lạch nhỏ chảy ra sông Thạch Hãn. Thôn Nhan Biều, xã Triệu Thượng (huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) nằm gần con sông Thạch Hãn. Dòng sông lững lờ trôi, mang theo ký ức bất tử trong tâm trí của o du kích Phan Thị Lựu. Đó là hình ảnh thời trẻ đánh giặc, cùng những người chiến sĩ trẻ từ miền Bắc đi vào tuyến lửa tham gia chiến đấu suốt 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị.
Chị Lựu kể lại: "Những ngày chiến đấu ác liệt ở Thành cổ, những người lính Sư đoàn 325 còn trẻ măng, da trắng bóc. Tôi nói với các đồng đội vào chiến đấu hết sức bình tĩnh và dũng cảm, có hy sinh thì cũng cam lòng, bởi đó là niềm vinh dự khi phụng sự Tổ quốc".
Những ngày chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị diễn ra nóng bỏng, chị em du kích trong thôn Nhan Biều đều sẵn sàng nhận nhiệm vụ dẫn bộ đội ra bến vượt sông, tiếp tế, tải thương. Đó là quãng thời gian chỉ có ngày, không có đêm. Vì ban đêm, pháo sáng của địch thả sáng rực dòng sông Thạch Hãn. Vậy nhưng, bộ đội ta vẫn lần lượt từ bờ Bắc vượt sông để vào Thành cổ. Có những lần anh em đang vượt sông bị địch phát hiện, nã pháo vào trúng đội hình, hy sinh gần hết.
Chị Lựu có cha là ông Phan Trinh, hy sinh năm 1968; anh ruột Phan Đông cũng hy sinh năm 1968; em Phan Định, hy sinh năm 1972. Những nỗi đau chồng chất càng nung nấu ý chí căm thù, khiến chị không sợ, không lùi bước trước bom réo, pháo chụp. Những lúc ra trận, chị trở thành người gan dạ, không sợ hy sinh.
Kỷ niệm với phóng viên mặt trận Đoàn Công Tính được chị kể lại: Những ngày cuối cùng trong 81 ngày đêm khói lửa ở Thành cổ Quảng Trị, đơn vị của chị Lựu nhận được thông tin có 3 tên thám báo của địch cải trang làm người đi cắt tóc cho bộ đội hoặc người địa phương để nắm tình hình của ta. Đúng ngày trực, chị hướng mắt về bên kia sông thì phát hiện có 3 người đàn ông đang đi về phía mặt trận. Lúc đó, khoảng 9 giờ sáng, gió thổi ào ạt tung bay lá cờ của quân giải phóng.
O Lựu đứng xốc dậy, khóa mục tiêu vào vòng ngắm rồi quát to bằng mật khẩu: "Hồng". Người đi vào mặt trận là nhà báo chiến trường Đoàn Công Tính cùng với 2 người. Ông Tính thấy o du kích kéo súng lên đạn nên trả lời ngay bằng mật khẩu: "Hà".
Hơn 40 năm rồi, nhưng chị Lựu vẫn không quên kỷ niệm ở chiến trường, luôn nhắc hỏi tấm ảnh được nhà báo Đoàn Công Tính chụp trong tư thế bồng súng hiên ngang. Vì có lần nhà báo Đoàn Công Tính đã khen, đó là tấm ảnh chân dung đẹp, vì o du kích đứng bên cạnh có lá cờ giải phóng, còn hậu cảnh bên kia sông Thạch Hãn thấp thoáng lá cờ 3 que cắm xiên.
Sau này, chị Lựu đã gặp một sự việc tương tự. Đó là vào ngày 16-6-1973, anh em du kích địa phương bắt giữ được một tên thám báo từ bờ Nam sông Thạch Hãn sang. Tên này khai là ba đấu tranh bị hy sinh, mẹ bị bắt, chị bị hãm hiếp, giờ đi tìm người thân. Nhưng nửa đêm hôm đó, chị Lựu phát hiện ra tên này mò dậy và bỏ trốn. Đêm đó, trăng sáng vằng vặc, soi sáng cả mặt sông. Tên thám báo vừa phóng xuống nước để sang bờ bên kia, lập tức chị lao theo nã 3 loạt đạn. Dưới ánh trăng khuya, tên thám báo giơ tay chới với rồi chìm vào dòng nước.
Từ một người con gái trẻ trung xông pha nơi lửa đạn với khẩu AK khoác vai, giờ chị đã bước sang tuổi 60. Vậy nhưng, ký ức thì vẫn trẻ mãi về 81 ngày đêm khói lửa ở Thành cổ Quảng Trị. Cứ đến dịp này, chị cùng các chị em lại ra Thành cổ thắp nén hương thơm tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh và làm sống lại ký ức một thời oanh liệt.
Sau ngày giải phóng, chị Lựu lấy chồng là con của một liệt sĩ. Nhưng do bị ảnh hưởng của chất độc da cam nên chị không thể sinh con cho anh được. Rồi một ngày, anh đi lập gia đình với người khác. Chị được một đơn vị hỗ trợ 15 triệu đồng để làm nhà tình nghĩa. Tổng chi phí làm nhà hết 39 triệu đồng. Chị đã phải vay mượn thêm để có nơi ở và làm nơi thờ cúng những người thân đã hy sinh. Thế nhưng, cho đến nay, đã hơn 10 năm rồi, chị vẫn chưa dứt hết món nợ làm nhà...
"Phụ cấp mỗi tháng được hơn 1 triệu, cô có sức khỏe mô, có lúc sáng dậy không nổi. Nhưng cũng ráng mà sống" - chị tâm sự rồi lại cười. Nụ cười của người đàn bà đã bước sang tuổi 60, khuôn mặt đầy nếp nhăn. Nhưng với chị Lựu thì nụ cười đó dường như vẫn ngập tràn sức trẻ. Vì cả cuộc đời chị luôn sống mãi với ký ức trẻ, hình bóng những người lính trẻ miền Bắc vào Nam chiến đấu.
Lê Văn Chương

Tuesday, July 12, 2016

Vụ PCA: Thông điệp quan trọng cho các bên

Vụ PCA: Thông điệp quan trọng cho các bên

 Hôm nay (12/07) Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) có trụ sở tại La Haye (Hà Lan) sẽ ra phán quyết vụ Philippines kiện Trung Quốc, liên quan đến các tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi của Bắc Kinh ở Biển Đông. Dưới đây là những điểm then chốt, đang được theo dõi sát sao về vụ việc này.
Tại sao vụ kiện lại quan trọng?
Đây là một trường hợp hiếm gặp. Quyết định này vừa có khả năng làm rõ nhiều vấn đề đang là trung tâm của những tranh chấp lãnh thổ nảy lửa ở Biển Đông, vừa có thể khơi dậy các căng thẳng đang gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ.
Bối cảnh vụ kiện?
Năm 2013, Philippines đã đưa vụ kiện lên Tòa án quốc tế về luật biển ở La Haye (Hà Lan). Họ đệ trình 15 cáo buộc khác nhau, trong đó nêu rõ các tuyên bố và hoạt động của TQ ở Biển Đông đã đi ngược lại luật pháp quốc tế. Trung Quốc đã từ chối tham gia vụ kiện và không thừa nhận thẩm quyền của của tòa.
Tuy nhiên, năm ngoái, Tòa trọng tài thường trực tuyên bố, họ có quyền phán xử ít nhất 7 trong số các cáo buộc trên và vẫn đang cân nhắc về 8 cáo buộc còn lại. Nhiều chuyên gia hy vọng, tòa có thể ra phán quyết chống lại TQ trên một số cáo buộc.
Vụ PCA: Thông điệp quan trọng cho các bên
Đảo nhân tạo mà TQ xây dựng trái phép trên Biển Đông. Nguồn ảnh: EPA
Các hàm ý pháp lý?
Cần phải nhấn mạnh rằng, tòa quốc tế ở La Haye (Hà Lan) đang không phân xử các tuyên bố tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, mà chỉ phân xử các quyền hàng hải gắn với những tuyên bố đó.
Một trong những cơ sở chính cho vụ kiện của Philippines là nghi vấn về giá trị pháp lý của đường 9 đoạn do Trung Quốc vẽ ra trên bản đồ, vốn tuyên bố chủ quyền tới 90% diện tích Biển Đông. Theo các chuyên gia, toà có thể tuyên bố đường 9 đoạn là bất hợp pháp hoặc có thể nghi ngờ nó theo nhiều cách, buộc TQ phải làm rõ các căn cứ pháp lí cho đường ranh giới trên biển đó, điều mà TQ hiện vẫn lảng tránh.
Các khía cạnh khác của vụ kiện khó dự đoán hơn. Tòa sẽ quyết định liệu nhiều thực thể địa lý, mà một vài trong số đó đã bị Trung Quốc biến thành đảo nhân tạo, nên được coi là bãi cạn lúc nổi lúc chìm (LTE), không có các vùng biển riêng của nó hay là đá, sở hữu vùng lãnh hải 12 hải lý hoặc là đảo, vốn được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Nhiều chuyên gia tin rằng, tòa sẽ tuyên bố một số đảo nhân tạo của Trung Quốc không có quyền sở hữu hợp pháp với các vùng nước xung quanh.
Ý nghĩa của phán quyết trong thực tế?
Tòa PCA không có quyền bắt ép thực thi phán quyết. Cơ quan này không thể buộc Trung Quốc phải làm điều gì và Bắc Kinh sẽ không rút khỏi bất kỳ đảo nhân tạo mới nào của họ. Song, nếu phán quyết của PCA ủng hộ Philippines, Trung Quốc có nguy cơ bị tổn hại danh tiếng và bị cô lập trong khu vực nhiều hơn, nếu họ phớt lờ Tòa và tiếp tục theo đuổi các tuyên bố chủ quyền của mình. Chính quyền Obama hiện coi phán quyết của tòa Liên hợp quốc như một cuộc sát hạch xem liệu Trung Quốc có tuân thủ luật pháp quốc tế hay không.
Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao?
Ngoài việc bác bỏ thẩm quyền của PCA, Trung Quốc đã và đang cố gắng tập hợp sự ủng hộ quốc tế đối với quan điểm của nước này rằng, việc tòa ra phán quyết là không chính đáng. Bắc Kinh tuyên bố hiện đã có 60 nước ủng hộ. Nhưng theo Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), một cơ quan cố vấn của Mỹ, hiện chỉ có 8 chính phủ công khai ủng hộ Bắc Kinh, bao gồm cả những nước không giáp biển như Lesotho và Afghanistan. Nếu phán quyết của PCA chống lại Trung Quốc, nước này có khả năng tìm cách trừng phạt Philippines, có thể thông qua hạn chế khách du lịch hoặc nhập khẩu một cách không chính thức.
Mỹ có liên quan như thế nào?
Nguy cơ lớn nhất là Trung Quốc đáp trả một phán quyết bất lợi và quyết định gia tăng các tham vọng quân sự ở Biển Đông, bằng cách tuyên bố chủ quyền đối với không phận trong khu vực hoặc bằng cách cố gắng xây dựng một đảo nhân tạo ở bãi cạn Scarborough, một thực thể địa lý mà Philippines cũng tuyên bố chủ quyền.
Nhằm đối phó với một phản ứng hung hăng hơn của Trung Quốc, Mỹ đã điều các khí tài quân sự trọng yếu tới khu vực, kể cả một hàng không mẫu hạm ghé thăm biển Đông và các chiến đấu cơ tới Philippines. Thông điệp gửi tới Bắc Kinh là, bất kỳ động thái nào đối với bãi cạn Scarborough của Trung Quốc cũng  sẽ vấp phải một phản ứng thích đáng của Mỹ. Tuy nhiên, các chuẩn bị về mặt quân sự này thể hiện rõ khả năng biển Đông sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều giữa Mỹ và Trung Quốc.
Quỳnh Anh (theo Financial Times)

Việt Nam hoan nghênh phán quyết của PCA

Việt Nam hoan nghênh việc Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ở The Hague (Hà Lan) đã đưa ra phán quyết cuối cùng ngày 12-7 và Việt Nam sẽ có tuyên bố về nội dung phán quyết này.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình. Ảnh: Dương Ngọc
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình. Ảnh: Dương Ngọc
Ngày 12-7, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 trên cơ sở đề nghị của Philippines đã đưa ra phán quyết cuối cùng, ông Lê Hải Bình, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ: Việt Nam hoan nghênh việc Tòa Trọng tài đã đưa ra phán quyết cuối cùng ngày 12-7. Việt Nam sẽ có tuyên bố về nội dung phán quyết.
Việt Nam một lần nữa khẳng định lập trường nhất quán của mình về vụ kiện này như đã được thể hiện đầy đủ trong Tuyên bố ngày 5-12-2014 của Bộ Ngoại giao gửi Tòa Trọng tài. Trên tinh thần đó, Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực theo quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật trên các vùng biển và đại dương.
"Nhân dịp này, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp với Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, cũng như tất cả các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam liên quan đến các cấu trúc địa lý thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" - ông Lê Hải Bình nhấn mạnh.
Ngày 31-10-2015, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình đã tóm tắt các quan điểm chính của Việt Nam đã nêu trong Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Tòa trọng tài ngày 5-12-2014.
Theo đó, Việt Nam ủng hộ việc tuân thủ và thực thi đầy đủ tất cả các quy định và thủ tục của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, kể cả việc giải quyết mọi tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các biện pháp hoà bình.
Việt Nam bảo lưu các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam ở Biển Đông, trong đó có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các quyền và lợi ích tại các vùng biển được xác định theo Công ước.
Việt Nam mong rằng Tòa giải thích và áp dụng các quy định liên quan của Công ước trong vụ kiện để đưa ra phán quyết công bằng và khách quan.
Việt Nam đề nghị Toà đặc biệt quan tâm đến các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam ở Biển Đông và Việt Nam sẽ xem xét các bước đi tiếp để bảo vệ các quyền và lợi ích quốc gia.

D.Ngọc